Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tanakh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n robot Thêm: ur:تناخ
Xqbot (thảo luận | đóng góp)
n robot Thêm: bs:Tanakh; sửa cách trình bày
Dòng 1:
[[HìnhTập tin:Targum.jpg|phải|nhỏ|320px|Bản Targum vào thế kỉ 11]]
'''Tanakh''' [תנ״ך;] (cũng viết là '''Tanach''' or '''Tenach''') là [[từ viết tắt chữ đầu]] cho [[Kinh thánh Hebrew]]. Từ viết tắt này dựa trên các [[chữ cái Hebrew]] của 3 phần của bộ kinh thánh:
 
Dòng 8:
Tanakh còn được gọi là [מקרא;], '''Mikra''' hay '''Miqra'''.
 
== Thuật ngữ ==
Ba phần cấu tạo nên từ viết tắt Tanakh được thấy nhiều trong các tài liệu từ giai đoạn [[Đền Thờ thứ hai]] và trong [[văn chương rabbi]]. Tuy nhiên từ viết tắt Tanakh không được sử dụng trong giai đoạn đó mà thuật ngữ chính xác ''Mikra'' (Sách đọc) được sử dụng. Thuật ngữ ''Mikra'' tiếp tục được sử dụng cho đến ngày nay bên cạnh ''Tanakh'' để chỉ các văn bản kinh thánh Hebrew. (Trong ngôn ngữ nói [[tiếng Hebrew]] hiện đại, ''Mikra'' mang vẻ trịnh trọng hơn ''Tanakh''.)
 
Vì các sách trong Tanakh phần lớn được viết bằng tiếng Hebrew nên nó còn được gọi là [[Kinh thánh Hebrew]]. (Một số phần của các sách [[Sách Daniel|Daniel]] và [[Sách Ezra|Ezra]], cũng như một câu trong sách [[Sách Jeremiah|Jeremiah]] và từ địa danh hai chữ trong sách [[Sách Sáng Thế|Sáng Thế]], được viết bằng [[tiếng Aramaea]] - nhưng dù vậy, chúng vẫn được viết bằng hệ thống chữ viết Hebrew.)
 
== Quy điển ==
:''Bài chính: [[Quy điển kinh thánh#Quy điển Do Thái|Quy điển Do Thái]]''.
 
Theo truyền thống Do Thái, Tanakh gồm 24 sách (được đánh số bên dưới). Torah có 5 sách, Nevi'im chứa 8 sách, Ketuvim có 11 sách.
 
Hai mươi bốn sách này cùng là các sách được có trong [[Cựu Ước]] của [[Kháng Cách]], nhưng thứ tự các sách thì có khác. Việc đánh số cũng khác: người Kitô giáo xếp thành 39 sách. Đó là vì một số sách người Kitô giáo tính là vài sách nhưng người Do Thái chỉ tính một sách.
 
Vì vậy, người ta có thể chỉ ra khác biệt kĩ thuật giữa Tanakh của Do Thái giáo với cái tương tự, nhưng không giống hệt, được gọi là [[Cựu Ước]] của Kitô giáo. Vì vậy, một số học giả thường dùng thuật ngữ ''[[Kinh thánh Hebrew]]'' để đề cập đến phần tương đồng giữa Tanakh và Cựu Ước trong khi tránh được thiên kiến tôn giáo.
 
Cựu Ước của [[Công giáo Rôma]] và [[Chính Thống giáo Đông phương]] bao gồm 6 sách không có trong Tanakh và một số phần trong Sách Daniel và Esther. Chúng được gọi là các [[sách thứ kinh]] (nguyên nghĩa là "đưa vào quy điển thứ phát", tức đưa vào quy điển sau).
 
== Các sách của Tanakh ==
Văn bản tiếng Hebrew nguyên thuỷ chỉ gồm [[phụ âm]] cùng với một số chữ cái không nhất quán được dùng như [[nguyên âm]] (''matres lectionis''). Trong giai đoạn đầu của thời kì trung cổ, các [[Masoretes]] mã hoá truyền thống đọc Tanakh bằng miệng bằng cách thêm hai loại kí tự đặc biệt vào văn bản: ''[[niqqud]]'' (điểm nguyên âm) và [[dấu ngân tụng]] (cantillation). Dấu ngân tụng quy định cú pháp, nhấn (trọng âm) và giai điệu khi đọc.
 
Các sách Torah có các tên thường dùng đặt theo chữ nổi bật đầu tiên trong mỗi sách. Tên cách sách theo [[tiếng Anh]] cũng như [[tiếng Việt]] không được dịch từ tiếng Hebrew mà dựa trên các tên tiếng Hy Lạp dùng cho [[bản Bảy mươi]]. Tên các sách trong bản Bảy mươi dựa trên tên được các rabbi đặt để miêu tả nội dung chủ đề của từng sách.
 
''Torah'' (Ngũ Thư) gồm có:
Dòng 71:
:24. [[Sử biên niên]] (I & II) [דברי הימים] (Dibre Hayamim)
 
== Phân chương, câu và sách trong Tanakh ==
 
Việc phân chương và đánh số câu không quan trọng trong truyền thống Do Thái. Tuy nhiên, chúng được ghi trong mọi bản Tanakh hiện đại để định vị và trích dẫn. Các sách Samuel, Các Vua và Sử biên niên cũng được phân thành phần I và II và được đánh số chương và câu theo truyền thống văn bản Kitô giáo.
 
Việc áp dụng cách phân chương theo kiểu Kitô giáo trong Tanakt bắt đầu vào cuối thời trung cổ ở [[Tây Ban Nha]], và điều này phản ánh sự [[diễn dịch]] kinh thánh của Kitô giáo.
 
[[Thể loại:Kinh Thánh]]
Dòng 83:
[[id:Tanakh]]
[[ms:Tanakh]]
[[bs:Tanakh]]
[[br:Tanac'h]]
[[bg:Танах]]