Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Bảy Năm”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n AlphamaEditor, General Fixes
n Đã lùi lại sửa đổi của AlphamaBot (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của OctraBot
Dòng 9:
|place=[[Châu Âu]], [[châu Phi]], [[Ấn Độ]], [[Bắc Mỹ]], [[Nam Mỹ]], các đảo [[Philippines]]
|casus=
|territory=[[Vương quốc Phổ]] giữ vững toàn bộ tỉnh [[Silesia]].<ref name="kinder2"/> [[Vương quốc Anh (1707-1801)|Vương quốc Anh]] sáp nhập [[Canada (Tân Pháp Quốc)|Canada]], [[Bengal]] và [[Florida]]. [[Nước Pháp thời cận đại|Pháp]] nhượng [[Louisiana (Tân Pháp Quốc)|Louisiana]] cho [[Đế quốc Tây Ban Nha|Tây Ban Nha]].
|result=Nước Anh, nước Phổ và liên minh chiến thắng<ref name="kinder2">Hermann Kinder & Werner Hilgermann, The Anchor Atlas of World History: Volume 1 (1974) pp. 282-283</ref><br />[[Hiệp định Sankt-Peterburg (1762)|Hiệp định Sankt-Peterburg]] <br /> [[Hiệp ước Hamburg (1762)|Hiệp định Hamburg]] <br /> [[Hiệp định Paris (1763)|Hiệp định Paris]]<br />[[Hiệp định Hubertusburg]]
|combatant1={{flag|Phổ|1750}}<br />{{flagcountry|Vương quốc Anh|1606}}<br />{{flagicon|Hanover|1692}} [[Electorate of Hanover|Hanover]]<br />{{noflag}}[[Iroquois Confederacy]]<br />[[Tập tin:Flagge Herzogtum Braunschweig.svg|border|22px]] [[Brunswick-Wolfenbüttel]]<br />{{flag|Portugal|1707}}<br />{{flagicon|Hesse}} [[Hesse-Kassel]]<br />{{flagicon image|Flagge Fürstentum Schaumburg-Lippe.svg}} [[Schaumburg-Lippe]]
Dòng 21:
Tại [[Bắc Mỹ]], cuộc chiến được gọi là [[Chiến tranh với Pháp và người Da đỏ|Chiến tranh Pháp và người Da đỏ]]. Nhiều người thổ dân tại Bắc Mỹ đã theo phía Pháp. Tuy nhiên, bất chấp đội quân bản địa đông đảo, Pháp vẫn đại bại và mất gần hết lãnh thổ Bắc Mỹ vào [[Vương quốc Anh (1707-1801)|Anh]] trừ vùng [[Québec|Quebec]].
 
Chiến tranh bắt đầu ở [[châu Âu]] năm [[1756]] với việc quân Pháp vây hãm [[Minorca]] thuộc Anh ở [[Địa Trung Hải]] và vua [[Friedrich II của Phổ|Friedrich II Đại Đế]] chinh phạt xứ [[Sachsen]] ở châu Âu lục địa. Mặc dù là chiến trường chính, các trận đánh đẫm máu ở châu Âu không mang lại thay đổi gì đáng kể so với tình trạng trước chiến tranh. Tuy nhiên, ý nghĩa của cuộc chiến tranh này là nhà vua nước Phổ đã giữ vững quyền kiểm soát tỉnh [[Silesia]] của ông ta, và đưa Vương quốc Phổ trở thành một quốc gia hùng mạnh ở miền Bắc Đức.<ref name="seven7"/>
 
Trong khi đó, kết quả cuộc chiến ở [[châu Á]] và [[châu Mỹ]] đã làm thay đổi sâu sắc những khu vực này trong giai đoạn sau đó. Những thỏa thuận trong [[Hiệp ước Paris 1763]] kết thúc vị trí cường quốc thuộc địa của Pháp ở châu Mỹ. Pháp mất các vùng đất ở Bắc Mỹ về phía đông [[sông Mississippi]] và nhiều vùng khác ở [[Canada]], cộng thêm các đảo ở [[Vùng Caribe|Tây Ấn]]. Anh Quốc củng cố các vùng đất thuộc địa ở Ấn Độ và Bắc Mỹ, trở thành cường quốc thực dân hàng đầu thế giới.
Dòng 41:
 
== Mặt trận châu Âu ==
Trên mặt trận châu Âu, trong những năm đầu Quân đội Phổ đại thắng. Dù Quốc vương Frieidrich II Đại Đế bị bao vây dữ dội, ông hành quân cùng quân nhu một cách tài tình đến đánh từng đội quân một của liên quân chống Phổ, tiêu diệt mọi hiểm họa. Tuy nhiên, vào năm 1759, ông chịu áp lực nặng nề ở khắp nơi trên toàn Vương quốc Phổ và phải chịu một số thất bại. Bên cạnh đó, liên quân chống Phổ cũng chịu tổn thất nặng nề. Khi nước Phổ không còn bị đe dọa ở phía Đông nữa, ông tiếp tục giành thắng lợi trong vài trận đánh cuối cùng ở phía Tây và ông giữ vững được tỉnh Silesia.<ref name="seven7"/>
 
=== Năm 1756 ===
Khi vua Phổ Friedrich II Đại Đế đánh quân Sachsen tại Pirna, vào ngày [[1 tháng 10]] năm [[1756]], ông ta kéo 24.000 quân Phổ tấn công đội quân Áo đông đảo hơn của Thống chế Brown. Khi ấy, Thống chế Brown đang kéo quân đến cứu vãn xứ Sachsen, và ông ta phải rút quân sau mộ trận đánh khốc liệt tại [[Trận Lobositz|Lobositz]], Quân đội Phổ giành chiến thắng. Cả hai phe đều mất khoảng 3.000 binh sĩ. Tuy nhiên, chiến thắng này có ý nghĩa lớn lao đối với nhà vua nước Phổ, 17.000 quân Sachsen và 80 hỏa pháo đầu hàng Quân đội Phổ.<ref name="seven7"/>
 
=== Năm 1757 ===
Tuy nhiên, trước năm 1757 chiến tranh chưa chính thức bắt đầu. Vào ngày [[17 tháng 1]] năm 1757, nữ hoàng Áo là [[Maria Theresia của Áo|Maria Theresia]] tuyên chiến với Đại đế Friedrich II.<ref>James Bell, [http://books.google.com.vn/books?id=d1UNAQAAIAAJ&pg=PA478&dq=#v=onepage&q&f=false "A system of geography, popular and scientific: or A physical, political, and statistical account of the world and its various divisions"], Volume 1, A. Fullarton and co., 1836, trang 478</ref><ref name="historyofwar"/> Từ xứ Sachsen, ông bèn xua quân chinh phạt xứ [[Čechy|Bohemia]] vào tháng 4 năm 1757, nhằm ''"phát động một chiến dịch quyết định diệt sạch Quân đội Áo và khiến họ không có khả năng tham gia chiến tranh nữa"''.<ref name="jurgenbaurer">Jurgen Brauer, Hubert P. Van Tuyll, ''Castles, battles, & bombs: how economics explains military history'', University of Chicago Press, 2008, trang 145</ref> Cùng năm đó, quân Phổ đánh bại quân Áo tại [[Trận Reichenberg|Reichenbach]], và quân Pháp xâm lược xứ Westphalia. Vua Friedrich II Đại Đế thân chinh thống lĩnh Quân đội Phổ tiến đánh Vương công Charles xứ Lorraine và Thống chế Browne - những tướng Áo đang phòng thủ kiên cố trên núi Moldau trước kinh thành Praha.<ref name="419byzantine10">Thomas Henry Dyer, ''The history of modern Europe: from the fall of Constantinople, in 1453, to the war in the Crimea, in 1857'', Tập 3, trang 410</ref>
 
Và, ông tấn công Vương công Charles tại thành Praha vào ngày [[6 tháng 5]] năm 1757. Trận chiến khốc liệt diễn ra từ 9 giờ sáng đến 8 giờ tối, đã đem lại chiến thắng cho Quân đội Phổ,<ref name="419byzantine10"/> cùng 4.500 tù binh Áo.<ref>{{chú thích sách | first=Bryan | last=Perrett | title=The Battle Book | publisher=Arms and Armour Press | location=London, England | year=1992 | isbn=1-85409-328-2}} p. 240.</ref> Thống chế Browne - thống lĩnh đạo quân tiếp viện cho Quân đội Áo - bại trận tử vong.<ref name="419byzantine10"/> Sau chiến thắng đó, vào ngày [[29 tháng 5]], Quân đội Phổ bắn phá kinh thành Praha.<ref name="rossleu10">Simon Millar, Adam Hook, ''Rossbach and Leuthen 1757: Prussia's Eagle Resurgent'', trang 10</ref> Nhưng đến ngày [[18 tháng 6]] cùng năm, 30.000 quân Phổ của Đại Đế Friedrich II bị 50.000 quân Áo đập tan tác tại Kolin,<ref>Tiha von Ghyczy, Carl von Clausewitz, Bolko von Oetinger, Christopher Bassford, [http://books.google.com.vn/books?id=IRhOHJhfMBYC&pg=PA125&dq=#v=onepage&q&f=false "Clausewitz on Strategy: Inspiration and Insight from a Master Strategist"], John Wiley and Sons, 2002, trang 125</ref> mất 14.000 binh sĩ.<ref>Arthur Hassall, [http://books.google.com.vn/books?id=OxzeUH4rmoIC&pg=PA26&dq=%2214,000%22+%2B+%22Kolin%22&hl=vi&ei=W5RJTNW7OcS3ccfyhZ8M&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=7&ved=0CEUQ6AEwBjgK#v=onepage&q=%2214%2C000%22%20%2B%20%22Kolin%22&f=false "The Making of the British Empire (A.D. 1714-1832)"], General Books LLC, 2009, trang 26</ref> Trong trận chiến này Quốc vương đã sáu lần thúc dục quân sĩ tiến công, và khi họ rút lui, ông quát tháo:<ref name="danhnhautaikolin"/>
Dòng 56:
[[Tập tin:Denkmal Friedrich II. in Friedrichshagen.jpg|trái|nhỏ|180px|Đài kỷ niệm Đại đế Friedrich II tại Friedrichshagen.]]
 
Và ông đã tập hợp với Quân đội Phổ để thân chinh chém giặc. Ông nhanh chóng tiến đến, nhưng một người Anh khuyên ông: ''"Muôn tâu Thánh thượng, chẳn lẽ Người muốn đơn phương độc mã lao vào đâm chém đạo quân kia sao?"'', do đó ông rút lui.<ref name="danhnhautaikolin"/> Trong cuộc chiến năm 1757, một trung thần quả cảm của nhà vua là Schwerin tử trận;<ref name="Cottinge199"/> ông đã chú ý đến [[Friedrich Wilhelm von Seydlitz|Friedrich Wilhelm Freiherr von Seydlitz]] (1721 – 1773), do vị tướng ấy khéo léo và quả quyết trong việc chỉ huy Kỵ binh Phổ. Sau trận chiến này, ông phong von Seydlitz làm Trung tướng.<ref name="rossbleut9">Simon Millar, Adam Hook, ''Rossbach and Leuthen 1757: Prussia's Eagle Resurgent'', trang 9</ref> Còn tướng chỉ huy quân cánh trái là Vương công Moritz xứ Anhalt-Dessau - từng lập chiến công tại Hohenfriedberg - thì bị thất sủng.<ref name="variousbritannica"/> Sau chiến bại tại Kolin, Quân đội Phổ không còn đủ sức để tiếp tục cuộc vây hãm thành Praha,<ref>Anderson, Fred. ''Crucible of War: The Seven Years' War and the Fate of Empire in British North America, 1754–1766''. Faber and Faber, 2001, trang 176-177</ref> khiến nhà vua mất hết những gì mà ông chiếm được trước đó,<ref name="rossleu1"/> phải rút khỏi xứ Bohemia và tiến về tỉnh Silesia.<ref name="historyofwar2"/><ref name="Sandler295"/> Đêm sau trận, ông đau buồn ngồi trước một con suối, và dùng gây vẽ hình người trên bãi cát. Thậm chí, nhà vua còn phải nghe một tin hết sức đau buồn: Thái hậu Sophia Dorothea qua đời.<ref name="danhnhautaikolin">John Holmes Agnew, Walter Hilliard Bidwell, ''The Eclectic magazine: foreign literature'', Tập 38, các trang 551-552.</ref>
 
Nữ hoàng Nga là Elizaveta Petrovna đứng về phe đối lập với Friedrich II Đại đế.<ref>''Russian Tsars'' by Boris Antonov, p.107.</ref> Bà lo sợ ông sẽ tranh giành Ba Lan với nước Nga,<ref>Allen Horstman, William H. Burnside, "The Essentials of European History: 1648 to 1789, Bourbon, Baroque, and Enlightenment", trang 9</ref> theo ghi nhận của nhà ngoại giao C. Hanbury Williams (người Anh), ''"vị Nữ hoàng khó có thể dấu giếm sự căm ghét của bà đối với Quốc vương Phổ, vì bà nổi nóng trong mọi phút"''.<ref name="dona94"/> Thủ tướng Chính phủ Nga cho rằng nước Phổ là ''"kẻ thù nguy hiểm nhất trong các nước láng giềng, Nga hoàng cần phải tiêu diệt đế chế này"''. Nữ hoàng Elizaveta cũng nói:<ref>R. Van Bergen, ''The Story of Russia'', BiblioBazaar, LLC, 2008, trang 141</ref>
{{cquote|
''Quốc vương Phổ là một ông vua tồi tệ. Ông ta không tin vào sự phù hộ của Chúa, ông ta đùa cợt với Thần thánh, và ông ta không hề đi lễ nhà thờ.''|||Elizaveta Petrovna
}}
 
Vào ngày [[17 tháng 5]] năm 1757 85.000 quân Nga tiến đánh vùng Königsberg.<ref>''The Evolution of Russia'' by Otto Hoetzsch</ref> Dưới sự chỉ huy của Bá tước William Fermor, Quân đội Nga đã đánh chiếm vùng Memel ở Đông Phổ.<ref>Szabo, ''The Seven Years War in Europe, 1756-1763'', trang 82</ref> Vào ngày [[30 tháng 8]] năm đó, [[Nguyên soái|Thống chế]] Hans von Lehwaldt xua 25.000 quân Phổ tấn công quân Nga tại [[Trận Gross-Jägersdorf|Gross-Jägersdorf]], và bị 55.000 quân Nga của Thống soái Stepan Fyodorovich Apraksin đập tan, nhưng sau đó quân Nga rút lui do Apraksin không biết phát huy lợi thế.<ref name="seven7"/> Lúc bấy giờ, Nga hoàng Elizaveta Petrovna đã già yếu, Apraksin không muốn làm mất lòng vị vua tương lai của nước Nga là Pyotr III bằng việc chạm trán với Friedrich II - người anh hùng của Pyotr III.<ref name="rossleu1"/> Hơn nữa, quân Nga cũng chịu tổn thất nặng nề trong trận đánh với quân Phổ, và quân lương của quân Nga cũng trở nên hỗn loạn.<ref>Christopher Duffy, ''The army of Maria Theresa: The Armed Forces of Imperial Austria, 1740-1780'', trang 184</ref> Dù sao thì thất bại của Quân đội Phổ tại Gross-Jägersdorf đã lôi kéo Vương quốc Thuỵ Điển vào tham chiến.<ref name="rudulwar98">Jonathan R. Dull, "The French Navy and the Seven Years' War", trang 98</ref>
 
Vào ngày [[7 tháng 9]] cùng năm, một sủng thần của vua Phổ là Winterfield bị đột kích và giết chết tại Moys.<ref name="rossleu10"/> Tuy vậy, nhà vua Phổ nước vẫn giữ một cái đầu lạnh. Có một sự thật rằng những đạo quân đối thủ của ông tỏ ra chậm chạp trong việc phát huy lợi thế của phe mình.<ref name="gibet110"/> Từ ngày 12 đến ngaỳ [[24 tháng 10]] năm 1757, Quân đội Phổ còn phải đương đầu với cuộc tiến công thành Berlin của tướng Haidik và Quân đội Áo.<ref name="Simon Millar11"/> Vào ngày [[5 tháng 11]] năm [[1757]], vua Friedrich II Đại Đế thân chinh cùng 30.000 quân Phổ phải đối mặt với 80.000 quân Áo và Pháp do Thống chế Soubise chỉ huy trong [[trận Roßbach|trận Rossbach]]. Liên quân Áo - Pháp tấn công nhà vua trên đỉnh núi Rossbach. Tuy nhiên, lực lượng [[Kỵ binh]] Phổ do Seidlitz chỉ huy phản công quân Áo, đẩy địch vào hỗn loạn, rồi lực lượng Bộ binh Phổ thừa thắng xông lên đập tan tác quân Áo, với tổn thất của liên quân là 4.000 binh sĩ tử trận hoặc thương vong, 7.000 binh sĩ, trong số đó có 11 tướng lĩnh và 63 hỏa pháo, bị Quân đội Phổ chiếm lĩnh. Quân đội Phổ chỉ tổn thất 3.000 binh sĩ.<ref name="seven7"/>
 
Vào ngày [[5 tháng 12]] năm 1757, Quốc vương Friedrich II Đại Đế thống lĩnh 33.000 quân Phổ đánh [[trận Leuthen]] với 90.000 quân Áo do [[Vương công Charles xứ Lorraine]] và Bá tước Daun cầm đầu. Ông đánh nghi binh vào cánh phải của quân Áo, sau đó, ông nhờ vào địa hình của vùng Leuthen mà rút quân chính quy, và tấn công quyết liệt vào cánh trái của quân Áo, đẩy lui quân cánh trái của đối phương. Quân cánh trái của Áo đã bị tiêu diệt hoàn toàn trong một cuộc tấn công của lực lượng Kỵ binh Phổ. Quân Áo tổn thất đến 7.000 binh sĩ (trận vong hoặc bị thương), 20.000 tù binh (trong số đó có ba viên tướng lĩnh), và 134 khẩu đại pháo. 5.000 binh sĩ Phổ tử trận hoặc bị thương. Sau chiến thắng này, Quốc vương Phổ mang 18.000 quân tái chiếm Breslau vào ngày [[10 tháng 12]] năm 1757.<ref name="seven7"/>
 
=== Năm 1758 ===
[[Tập tin:Bataille de Zorndorf.jpg|phải|nhỏ|190px|[[Trận Zorndorf]] (1758), một trong những chiến thắng lẫy lừng nhất của vua Friedrich II Đại Đế.<ref name="bookhorse"/>]]
 
Vào năm 1758, Quốc vương Friedrich II Đại Đế đã gặt hái nhiều chiến công từ năm trước, nên trở nên tự tin hơn. Ông tiến đánh xứ [[Morava|Moravia]], để đánh đuổi quân Áo ra khỏi bờ cõi Silesia. Tuy nhiên, ông thất bại. Quân đội Áo giữ được [[Olmütz]], và do họ học được bài học từ chiến bại của họ tại Leuthen, họ không tiến hành một cuộc phản công quyết định. Họ chỉ đẩy lui cuộc tấn công bằng cách đánh lừa các cánh quân của ông. Quân đội Phổ phải rút quân về xứ Bohemia, sau đó kéo nhau về tỉnh Silesia.<ref name="Ritter116"/>
 
Trong lúc đó, Quân đội Nga là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với nền quân chủ Phổ thời bấy giờ. Quân Nga chiếm được xứ [[Đông Phổ]] không được phòng thủ, sau đó tiến hành vây hãm Custria gần kinh thành [[Berlin]]. Với một số Trung đoàn hùng mạnh nhất của ông, Quốc vương Friedrich II Đại Đế kéo quân về phương Bắc.<ref name="Ritter116"/> Vào ngày [[25 tháng 8]] năm [[1758]], [[trận Zorndorf]] giữa ra giữa 52.000 quân Nga do Fermor chỉ huy và 30.000 quân Phổ do vua Friedrich II Đại Đế thân chinh thống lĩnh. Ông tiến hành tấn công các chiến hào của quân Nga, và đánh đuổi quân Nga ra khỏi đây. Trận Zorndorf là trận đánh khốc liệt nhất trong cuộc chiến tranh Bảy năm, Quân đội Nga đã chiến đấu anh dũng dù thất bại thảm hại.<ref>Anthony Guggenberger, ''A General History of the Christian Era: The social revolution. 9th ed. 1918'', trang 74</ref><ref>William Francis Collier, ''The great events of history from the beginning of the Christian era to the 19th century'', trang 298</ref> Với tổn thất đến 21.000 binh sĩ, quân Nga buộc phải rút quân khỏi trận địa, và chấm dứt cuộc tiến công của họ. Vua Friedrich II Đại Đế giành chiến thắng, Quân đội Phổ mất khoảng 11.000 binh sĩ.<ref name="seven7"/> Cũng như trận thắng vang dội tại Rossbach năm trước, ông giành chiến thắng lừng lẫy tại Zorndorf là nhờ sự phò tá đắc lực của hai viên chỉ huy Kỵ binh Phổ kiệt xuất là [[Friedrich Wilhelm von Seydlitz]] và [[Hans Joachim von Zieten]].<ref>A. Henry Higginson, ''The book of the horse'', trang 208</ref>
 
Ở phương Bắc, các tướng Phổ đã đánh tan tác các cuộc tấn công của liên quân Nga - Thụy Điển. Quân Nga rút khỏi pháo đài Kolberg và rút về sông Vistula.<ref name="Ritter116">[[Gerhard Ritter]], ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 116</ref> Vào ngày [[23 tháng 6]] năm 1758, 32.000 liên quân [[Hannover|Hanover]] - [[Hessen|Hesse]] - [[Brunswick]] do [[Vương công Ferdinand xứ Brunswick]], đánh [[trận Crefeld]] với 50.000 quân Pháp của Tử tước Clermont. Quân đội Hanover giành chiến thắng oanh liệt và gây tổn thất nặng nề cho quân Pháp.<ref name="seven7"/>
 
=== Năm 1759 ===
Dòng 90:
 
=== Năm 1761 ===
Vào năm 1761, lực lượng Hải quân của Vương quốc Phổ đã được tái xây dựng. Trên đường bộ, người Thụy Điển cho 15.000 quân tiến đánh nước Phổ, và bị chặn đứng bởi đội kỵ binh nhẹ của viên Sĩ quan Wilhelm Sebastian von Belling cùng lực lượng dân quân tỉnh Pomerania.<ref name="duffy228"/> Quân đội Áo đã đẩy lùi Quân đội Phổ của Hoàng tử Friedrich Heinrich Ludwig ra khỏi vùng Freiberg trên dòng sông Mulde. Song, ông đã giành thắng lợi giữ vững xứ Sachsen trong tay Quân đội Phổ, không để xứ Sachsen rơi vào tay của Thống chế Daun.<ref>Thomas Henry Dyer, ''Modern Europe from the Fall of Constantinople to the Establishment of the German Empire, A.D. 1453-1871: 1714-1796'', trang 181</ref> Trong lúc đó, bước tiến công của quân Pháp do Broglie chỉ huy đã bị Vương công Ferdinand xứ Brunswick đánh lui, đánh đuổi quân Pháp ra khỏi xứ [[Hannover|Hanover]].<ref name="stettins"/><ref name="KOHLRAUSCH"/> Vào năm 1761, vua Friedrich II Đại Đế vẫn chặn đứng được liên quân đông đảo hơn hẳn, nhờ vào thiên tài quân sự của ông. Trong cuộc chiến năm 1761, ông không đánh một trận lớn nào cả.<ref name="stettins"/> Tuy nhiên, nước Phổ gặp không ít khó khăn trong cuộc chiến vào năm 1761. Cuối cùng, nước Phổ đã đứng trước nguy cơ thất bại.<ref name="sthaldis"/>
 
Sau vài lần bị Quân đội Phổ đẩy lui, vào tháng 12 năm 1761, liên quân Nga - Thụy Điển do Zakhar Grigoryevich Chernyshov và [[Pyotr Aleksandrovich Rumyantsev]]-Zadunaisky chỉ huy chiếm được Kolberg<ref name=Buchholz352354>Buchholz (1999), sách đã nêu, trang 352–354</ref> (Pomerania) - một pháo đài quan trọng của Quân đội Phổ trên vùng [[biển Baltic|biển Ban Tích]], đồng thời quân Áo đánh chiếm Schweidnitz. Như vậy là quân Phổ đã mất pháo đài cuối cùng của họ trên biển này.<ref>Anderson, trang 492</ref> Trong khi Quân đội Áo đã có thể nghỉ đông tại Silesia và miền Tây Sachsen, Quân đội Nga cũng có thể nghỉ đông tại vùng Pomerania. Tuy nhiên, quân Nga thất bại trong việc đánh chiếm [[Szczecin|Stettin]], còn quân Thụy Điển cũng bị quân Phổ của Đại tá Belling đánh bại.<ref name="stettins">Henry Morse Stephens, ''Syllabus of a course of eighty-seven lectures on modern European history (1600-1890)'', trang 110</ref><ref>Sir Richard Lodge, ''A History of Modern Europe from the Capture of Constantinople, 1453, to the Treaty of Berlin, 1878'', trang 367</ref> Vào năm 1762, nước Anh đánh [[Tây Ban Nha]], vì vậy họ phải cắt giảm quân số hỗ trợ Phổ để tập trung vào việc đánh quân Tây Ban Nha.
 
Không những thế, do Thủ tướng Anh [[William Pitt Già]] mất chức vào tháng 10 năm 1761, nước Phổ không thể nhận được viện trợ của Anh Quốc nữa, nên tài nguyên và nhân lực của nước Phổ đều kiệt quệ.<ref name="brackenb"/> Tình hình nước Phổ nguy kịch đến mức vua Friedrich II Đại Đế đã nghĩ đến chuyện hoặc là nhận lấy [[Tự sát|cái chết anh dũng]] của nhà chính trị [[Cato Trẻ]] thời [[La Mã cổ đại]] với bình thuốc độc của ông, hoặc là làm theo những lời răn dạy của lãnh tụ [[Julius Caesar]], cố gắng chiến đấu cho thật tốt.<ref>James P. O'Donnell, ''The Bunker'', trang 40</ref> Ông có nói:<ref name="ritter125">[[Gerhard Ritter]], ''Frederick the Great: A Historical Profile'', các trang 124-126.</ref>
{{cquote|''Vốn đã hiến dâng tuổi trẻ cho phụ vương của Trẫm, và năng lực của Trẫm cho Quốc gia, Trẫm nghĩ, Trẫm có quyền làm tùy tiện với tuổi già của mình theo mong muốn.''|||Friedrich II Đại Đế}}
 
=== Toàn dân Phổ cùng vùng lên chiến đấu ===
Nhưng, toàn dân Phổ không hề tuyệt vọng. Họ trở nên kính trọng vị Quốc Vương của họ, trong hoàn cảnh khó khăn như thế, họ nhiệt liệt hỗ trợ và hoan nghênh ông, thể hiện rõ rệt niềm tin cậy của họ đối với ông. Tầng lớp thanh niên mọi giai cấp, với [[Chủ nghĩa yêu nước|lòng yêu nước]] nồng nàn và lòng trung thành tận tụy đối với ông, họ đều nhập ngũ dưới ngọn cờ của vị Quân vương anh dũng.<ref name="KOHLRAUSCH">FREDERICK KOHLRAUSCH, ''HISTORY OF GERMANY; FROM THE EARLIEST PERIOD TO THE PRESENT TIME'', trang 405</ref> Không những thế, ông đã nhận thấy sức mạnh của đức tin [[Kitô giáo|Ki-tô giáo]]. Những vị tướng theo Ki-tô giáo của ông, Ziethen - lấy cảm hứng từ lòng yêu nước của một người theo Tin Lành được thức tỉnh là Zinzendorf ở vùng [[Morava|Moravia]], Spener, Franke thẳng thắn can gián nhà vua, họ cho rằng tự sát là một hành vi trái ngược với đức tin Ki-tô giáo.<ref name="Zimmermann"/>
 
Trong khi vị Quốc vương vĩ đại thường tuyệt vọng, các vị tướng sùng đạo của ông đã dẫn dắt ông trên con đường đúng đắn, nhờ vào lòng tin của họ vào [[Thiên Chúa]] - "''Người sẽ bảo vệ và giữ vững nước Phổ - thành lũy của đức tin [[Tin Lành|Kháng Cách]], chính nghĩa của Đức Chúa và [[Phúc Âm]]"''. Ở các xứ đạo, những mục sư Tin Lành cũng hợp tác với nhau, kêu gọi muôn dân hết lòng vì Tổ quốc, và giữ vững tỉnh thần dân tộc Phổ. Xưa vị vua thiên tài đã động viên tinh thần của nhân dân Phổ, nay nhân dân Phổ động viên tinh thần của ông.<ref name="Zimmermann">Wilhelm Zimmermann, ''A Popular History of Germany - From the Earliest Period to the Present Day'', trang 1593</ref> Rõ ràng, chừng nào Quân đội Phổ vẫn còn tiếp tục chiến đấu, lại còn trở nên vững mạnh bởi sự tham chiến của toàn dân Phổ, cả Quốc vương và Quân đội Phổ vẫn có thể thách thức quân xâm lược: Quốc vương, Quân đội và Nhân dân hợp nhất vô cùng chặt chẽ không thể nào rời ra, tất cả đều bị đe dọa bởi sự suy sụp của Vương quốc Phổ; nếu chuyện này là không thể tránh khỏi, tất cả mọi người Phổ nhất định phải nhận lấy nó trong niềm vinh quang.<ref name="KOHLRAUSCH"/> Bản thân ông cũng nói tiếp:<ref name="ritter125"/>
{{cquote|''Nếu Trẫm thấy thời cơ mỏng manh nhất để giành chiến thắng, Trẫm sẽ cố gắng dồn hết mọi năng lực của mình vào việc dẹp giặc. Trẫm sẽ trở nên hèn hạ, nếu tuyệt vọng mà chẳng có lý do chính đáng!''|||Friedrich II Đại Đế}}
 
=== Năm 1762 ===
[[Tập tin:Europe 1748-1766.png|nhỏ|hochkant=1.6|Âu châu trong thời kỳ chiến tranh 7 năm]]
Trong lúc đó, toàn bộ liên quân chống Phổ đều kiệt quệ cả, mệt mỏi vì chiến tranh và suy sụp kinh tế,<ref>Charles George Herbermann, Knights of Columbus. Catholic Truth Committee, John Joseph Wynne, ''The Catholic encyclopedia: an international work of reference on the constitution, doctrine, discipline, and history of the Catholic church'', Tập 9, trang 665</ref> vì thế họ vẫn không thể diệt nổi nước Phổ. Nước Nga mất vô số nhân lực và tiền của, nước Pháp ngày càng lâm vào tình cảnh hấp hối trong khi Nữ hoàng Áo là Maria Theresia phải sa thải 20.000 binh sĩ vì họ đòi tiền.<ref name="sthaldis">Stacy Bergstrom Haldi, ''Why wars widen: a theory of predation and balancing'', các trang 31-32, trang 38.</ref><ref name="brackenb"/> Tình hình chính trị và quân sự châu Âu trở nên bế tắc, nước Áo gặp những khó khăn về tài chính, nước Nga mệt mỏi với cuộc chiến tranh, nước Thụy Điển còn chuẩn bị rút khỏi cuộc chiến tranh, trong khi [[Đế quốc Ottoman]] - Thổ Nhĩ Kỳ tỏ ra lạnh lùng với nước Pháp.<ref>Jonathan R. Dull, ''The French Navy and the Seven Years' War'', trang 217</ref> Với ý chí quyết đấu và tài năng tổ chức bộ máy Nhà nước - vốn là một trong những tài năng vĩ đại nhất của ông, nhà vua nước Phổ đã tăng gấp đôi quân số của mình.<ref name="brackenb">C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, ''Frederick the Great'', trang 243</ref> Vào năm 1762, trong lúc liên quân kiệt quệ, Nữ hoàng Nga [[Elizaveta của Nga|Elizaveta Petrovna]] qua đời, Nga hoàng [[Pyotr III của Nga|Pyotr III]] lên kế ngôi vua. Cuộc chiến tranh Bảy năm là một cuộc chiến tranh tốn kém của nước Nga; người ta nói ông vô cùng ngưỡng mộ vua Friedrich II Đại Đế, và do đó ông đã ký kết [[Hiệp định Sankt-Peterburg]] vào ngày [[15 tháng 5]] năm 1762 - một chuyển biến lớn lao được xem là "[[Phép lạ của Nhà Brandenburg]]". Ông đã trả lại đất đai cho nhà vua nước Phổ, lại còn "biếu" cho Quân đội Phổ một quân đoàn của Quân đội Nga. Theo chân nước Nga, Vương quốc Thụy Điển cũng ký kết [[Hòa ước Hamburg]] vào ngày [[22 tháng 5]] năm 1762 với Vương quốc Phổ.<ref name="sthaldis"/>
Sau khi liên quân chống Phổ đều kiệt quệ và Đế quốc Nga và Vương quốc Thuỵ Điển ký hoà ước với Đại đế Friedrich II, ông đã mở ra chiến dịch năm 1762 và tập trung vào việc đánh bại quân Áo và quân Pháp.<ref name="khakieu330">Kha Xuân Kiều, Hà Nhân Học, sách đã dẫn, trang 330</ref><ref>''Illustrated Naval and Military Magazine: A monthly journal devoted to all subjects connected with Her Majesty's land and sea forces'', Tập 2, trang 290</ref> Giờ đây, Tướng Zakhar Grigoryevich Chernyshov cùng một đạo quân Nga - từng sát cánh với Thống chế Áo Ernst Gideon von Laudon trước kia - đứng về phe nhà vua Phổ. Quân Anh và quân Phổ đã giành được lợi thế trong cuộc chiến tranh Bảy năm. Trên mặt trận miền Tây, Thống chế - Công tước Ferdinand vùng Brunswick vẫn duy trì được sự huy hoàng của Vương quốc Phổ.<ref name>''Chambers's encyclopaedia: a dictionary of universal knowledge for the people...'', Appleton, 1869, trang 637</ref> Vào ngày [[24 tháng 6]] năm [[1762]], Công tước Ferdinand thống lĩnh quân Phổ cùng liên quân Anh-Hanover-Brunswick-Hessian đánh thắng quân Pháp của Vương công Charles Rohan xứ Soubise và Duc D’Estrées trong trận chiến Wilhelmstahl, chỉ tổn thất 707 binh sĩ.<ref>Savory, Reginald, ''His Britannic Majesty's Army in Germany During the Seven Years War'', Oxford University Press, 1966, trang 375</ref>
 
Vào ngày [[9 tháng 7]] năm 1762, Nga hoàng Pyotr III bị Hoàng hậu Ekaterina là vợ ông lật đổ. Tuy nhiên, Nữ hoàng Nga mới là [[Ekaterina II của Nga|Ekaterina II Đại Đế]] chỉ đề nghị rút đạo quân Nga đang hỗ trợ vua Phổ về nước, chứ vẫn đề cao nền hòa bình<ref name="sthaldis"/>. Sở dĩ bà giữ vững nền hòa bình mà hai vua Pyotr III và Friedrich II Đại Đế đã thiết lập là do ngân khố quốc gia Nga đã trống rỗng, và quân sĩ Nga chưa được trả tiền công.<ref>Orville Theodore Murphy, ''Charles Gravier, Comte de Vergennes: French diplomacy in the age of revolution, 1719-1787'', các trang 137-138.</ref> Mặc dù có đồng minh, nhà vua nước Phổ bỏ thêm tiền vào ngân khố qua việc cướp phá tàn bạo các xứ [[Mecklenburg]] và [[Sachsen]] đang bị [[Quân đội Phổ]] chiếm đóng; không những thế, ông còn thực hiện một chính sách gây lạm phát cũng tàn nhẫn không kém, làm giảm giá đáng kể đồng tiền. Chính sách này của ông được những thương nhân người [[Do Thái]] hỗ trợ. Nhà vua nước Phổ vẫn tiếp tục đập tan tác liên quân Áo - Pháp trong một loạt trận chiến sau đó, với những chiến thắng lừng lẫy nhất là [[Cuộc vây hãm Schweidnitz (Chiến tranh Bảy năm)|cuộc tái chiếm thành]] [[Schweidnitz]] và giữa vững được vùng [[Silesia]] phía Bắc thành [[Glatz]].<ref name="ritter125"/> Trên mặt trận phía Tây, Vương công Ferdinand xứ Brunswick vẫn đánh bại quân Pháp như các chiến dịch trước, vai trò của ông chỉ là phòng thủ và ông đã thể hiện tài năng xuất chúng. Không những thế, Hoàng tử Heinrich cũng xuất quân đánh tan tác Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh trong [[trận Freiberg]] vào ngày [[29 tháng 10]] năm 1762.<ref name="ReferenceA">B Brackenbury, C. B. Brackenbury, ''Frederick the Great'', trang 245</ref> Không những toàn thắng tại xứ Sachsen, vị vua năng nổ Friedrich II Đại Đế đẩy lui quân Áo đến tận bức tường thành [[Praha]], xứ [[Čechy|Bohemia]]. Nhưng vậy, liên quân chống Phổ đã hoàn toàn thất bại và không thể chống nổi sự chống trả của nhà vua và toàn quân Phổ nữa.<ref name="ReferenceA"/> Trong thời gian đó, quân [[Thổ Nhĩ Kỳ]] cũng hỗ trợ ông: họ mở đầu cuộc chinh phạt xứ [[Hungary]]. Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đã kéo đến [[sông Donau|sông Danube]] và thắng lợi.<ref>John S. C. Abbott, ''The Empire of Austria; Its Rise and Present Power'', trang 287</ref>
 
Dù Đại Đế Friedrich II đã dè bẹp quân Pháp tại Rossbach (1757), hai nước Pháp - Phổ chưa hề tuyên chiến với nhau; do đó, vua Louis XV ngừng bắn ''trên thực tế'' với nhà vua nước Phổ, thay vì ký kết hòa ước với ông. Vua Pháp phải trả cho vua Phổ những vùng đất bị quân Pháp chiếm đóng bên sông Rhein: Cleves, Gelders và Mörs. Vào ngày [[3 tháng 2]] năm [[1763]], [[Hòa ước Paris]] được ký kết, chấm dứt cuộc [[chiến tranh Anh-Pháp]]. Mất đồng minh, nước Áo tuyệt vọng, với ngân khố đã kiệt quệ.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 205</ref> Với sự hỗ trợ của các nhà ngoại giao người Sachsen, các cuộc đàm phán hòa bình giữa [[Vương quốc Phổ]] và [[Đế quốc Áo]] đã diễn ra tại lâu đài Hubertusburg của xứ Sachsen. Qua những cuộc tranh luận, Đại Đế Friedrich II giữ vững được toàn bộ những vùng đất mà ông đã chiếm được trong cuộc [[Chiến tranh Kế vị Áo]]. Vào ngày [[15 tháng 2]] năm 1763, cuộc chiến tranh Bảy năm kết thúc: Trong suốt bảy năm qua, Quân đội Phổ đã chiến đấu chống liên quân ba liệt cường quân sự Nga - Áo - Pháp và giữ vững đất nước, giờ đây tất cả mọi quốc gia đều kiệt quệ: sự cương quyết, lòng dũng cảm và tài năng của Đại Đế Friedrich II cuối cùng đã mang lại danh dự và chiến thắng cho ông. Nước Phổ hoàn toàn trở thành một [[cường quốc|liệt cường]]. Vào ngày [[30 tháng 3]] năm 1763, Đại Đế Friedrich II khảo hoàn trở về kinh đô [[Berlin]].<ref name="ritter125"/><ref>Brackenbury, C. B. (Charles Booth), 1831-1890, ''Frederick the Great'', Xem phần "Tài liệu tham khảo".</ref> Tuy toàn thắng nhưng ông không tham dự bất kỳ một lễ mừng chiến thắng nào cả.<ref>[[Christopher M. Clark]], ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 226</ref>