Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Nguyên Hãn”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 19:
|laterwork=
}}
'''Trần Nguyên Hãn''' (
== Quê quán, dòng dõi và xuất thân ==
Dòng 25:
:[[Phạm Đình Hổ]]<ref>Từng giữ chức [[Quốc tử giám]] Tế tửu (có thể hiểu nôm na là Hiệu trưởng Quốc tử giám).</ref> và [[Nguyễn Án]] trong sách ''Tang thương ngẫu lục'', [[Trần Trọng Kim]] trong ''Việt Nam sử lược'' và [[Phan Kế Bính]] đều cho rằng Trần Nguyên Hãn là người Hoắc Xa, huyện Quảng Oai, Sơn Tây (nay thuộc huyện Ba Vì, [[Hà Nội]]). Trần Xuân Sinh bác lại ý trên. Ông nói rằng mình từng tới xã Hoắc Xa (còn được gọi là Vân Xa), nhưng dân xã này thờ Trần Khát Chân và họ - dân xã này – cũng không biết gì về Trần Nguyên Hãn cả. Từ luận cứ trên, tác giả này cho rằng [[Trần Trọng Kim]] trong ''Việt Nam sử lược'' và [[Phan Kế Bính]] đã dựa vào ''Tang thương ngẫu lục'' mà lầm theo.<ref>Nguồn: ''Thuyết Trần'', Trần Xuân Sinh, NXB Hải Phòng 2003, trang 493.</ref>
Sách Đại Việt thông sử viết rằng ông:''Có học thức, giỏi binh pháp và là dòng dõi của Tư đồ Trần Nguyên Đán.''<ref>Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, dịch giả Ngô Thế Long, trang 231</ref>
== Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn ==
=== Gia nhập quân Lam Sơn ===
Theo ''Gia phả họ Đinh'' kể về thân thế [[Đinh Liệt]], một tướng quân tham gia [[khởi nghĩa Lam Sơn]] khác: Tới xuân năm 1423, trong khi Lê Lợi phái [[Phạm Văn Xảo]] đi tìm Nguyễn Trãi ở [[Hà Nội#Thăng Long, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh|Đông Quan]] thì Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn - khi này mang hai tên giả lần lượt là Trần Văn và Trần Võ tới chỗ Lê Lợi (khi này đang ở Lỗi Giang). Tuy vậy, ban đầu Nguyễn Trãi chỉ được giao làm Ký lục quân lương, Trần Nguyên Hãn thì chở thuyền do phía Lam Sơn chưa rõ lai lịch của hai người mới tới. Chỉ sau khi Nguyễn Trãi dâng ''"Bình Ngô sách"'' thì Lê Lợi mới nhận ra học vấn, khả năng của hai ông và trọng dụng.
Hàng 42 ⟶ 36:
Lần thứ hai, hai ông mới ở lại sau khi thấy Lê Lợi thức khuya nghiền ngẫm binh thư. Một số tài liệu khác thì chép hai ông định bỏ về (sau đó vẫn ở lại) khi thấy Lê Lợi xé thịt ăn bằng tay.
Sách Đại việt thông sử chép rằng:Khi nhà Hồ mất, quân Minh xâm lược, trăm họ lầm than, Trần Nguyên Hãn nuôi chí cứu đời giúp dân. Một hôm đến lễ thần ở đền Bạch Hạc, thấy thần ở đền núi Tản Viên bảo với thần ở đền Bạch Hạc rằng trời đã sai Lê Lợi, người ở Lam Sơn làm vua nước An Nam. Vì thế ông mới vào Thanh Hóa tìm Lê Lợi, một lòng theo. Lê Lợi biết tài lược của ông, đãi ngộ rất hậu, cho dự bàn mưu kín, cho theo đánh giặc luôn lập công. Năm Ất Tỵ (1425), ông được Lê Lợi lệnh cho ông cùng Thượng tướng Lê Nỗ, chấp lệnh Lê Đa Bồ đem hơn 1000 quân và một con voi đi đánh các xứ Tân Bình, Thuận Hóa.<ref>Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, dịch giả Ngô Thế Long, trang 231</ref>
=== Đánh Tân Bình<ref>Tân Bình: tên phủ thời thuộc Minh, gồm dất các huyện Quảnh Trạch, Bố Trạch, Lệ Ninh, Tuyên Hóa, Bến Hải, tỉnh Quảng Bình
ngày nay</ref>, Thuận Hóa<ref>Thuận Hóa: tên phủ thời thuộc Minh gồm đất các huyện Triệu Hải, Hương Điền, Hương Phú, Hương Hóa, Phú Lộc, tỉnh Quảng Trị
Năm Ất Tỵ (1425), mùa thu, tháng 7, Lê Lợi phán đoán rằng thành quân Minh ở các xứ Thuận Hóa, Tân Bình đã từ lâu không thông tin tức với Nghệ An và Đông Đô, bảo các tướng: ''Người làm tướng giỏi ngày xưa bỏ chỗ rắn đánh chỗ mền, tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu, như thế chỉ dùng một nữa sức mà nên công gấp đôi''. Liền sai ông cùng Thượng tướng Lê Nỗ, chấp lệnh Lê Đa Bồ đem hơn 1000 quân và một con voi đi đánh các xứ Tân Bình, Thuận Hóa.<ref>Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, dịch giả Ngô Thế Long, trang 231</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 336</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư bản điện tử[http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf]</ref><ref>Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, dịch giả Ngô Thế Long, trang 232</ref>
Quân khởi nghĩa đến sông Bố Chính<ref> Sông Bố Chánh: tức là sông Gianh, tỉnh Quảng Bình. </ref> thì gặp quân Minh, Trần Nguyên Hãn, Lê Nỗ, Lê Đa Bồ đưa quân vào chỗ hiểm yếu, bí mật mai phục ở Hà Khương để nhử giặc. Tướng Minh là Nhậm Năng đem hết quân vào, ông cùng Doãn Nỗ, Lê Đa Bồ hợp binh tượng còn lại để đánh rồi giả cách thua chạy. Nhậm Năng đuổi theo, quân mai phục đánh kẹp 2 bên, quân Minh tan vỡ, bị chém và chết đuối rất nhiều.<ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 336</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư bản điện tử[http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf]</ref><ref>Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, dịch giả Ngô Thế Long, trang 232</ref>
Tuy thắng, nhưng quân của ông và Doãn Nỗ có ít, mà quân Minh vẫn đông, họ sai người cấp báo và xin quân. Lê Lợi sai Lê Ngân, Lê Bôi, Lê Văn An đem 70 chiếc thuyền chiến vượt biển đến. Được tin thắng trận trước đó, liền thừa thắng đánh vào các xứ Tân Bình, Thuận Hóa. Quân và dân các nơi bị quân Minh chiếm đều quy thuận, quân Minh rút vào thành cố thủ. Các xứ Tân Bình, Thuận hóa đều thuộc về nghĩa quân.<ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 336</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư bản điện tử[http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf]</ref><ref>Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, dịch giả Ngô Thế Long, trang 232</ref>
=== Chiến thắng Đông Bộ Đầu ===
Tháng 9, năm Bính Ngọ (1426), Lê Lợi nhận được tin báo của Đinh Lễ về chiến thắng Tốt Động, Chúc Động liền đem quân tiến ra Bắc, hợp quân vây Đông Đô. Đến Tây Phù Liệt<ref>Tây Phù Liệt: thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội ngày nay. </ref>, Lê Lợi đích thân chỉ huy cánh quân đánh cửa phía Nam thành Đông Đô.<ref>Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, dịch giả Ngô Thế Long, trang 232</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 339</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư bản điện tử[http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf]</ref>
Lê Lợi chia quân làm 3 cánh, ngày 23 tháng 10, sai Trần Nguyên Hãn, bùi Bị đem hơn trăm chiếc thuyền thủy quân, ngược dòng sông Đại Lũng ra cửa sông Hát, rồi thuận dòng xuôi đến bến Đông Bộ Đầu sông Lô; sai Đinh Lễ đem hơn 1 vạn quân bộ bí mật tiến đến cầu Tây Dương; Lê Lợi đích thân dẫn binh tượng đến cửa Nam ngoài thành Đại La để đánh thành Đông Quan.<ref>Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, dịch giả Ngô Thế Long, trang 232</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 339</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư bản điện tử[http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf]</ref>
Đến đêm, hồi canh ba, quân 3 mặt đánh ập vào, phóng lửa đốt các nhà ở ngoài thành, khói lửa mù mịt đầy trời. Các doanh quân đóng ngoài thành của Phương Chính tranh nhau chạy vào cửa thành xác chết gối lên nhau. Ta bắt hết những người trong nước buộc phải theo giặc và hơn trăm chiến thuyền cùng rất nhiều khí giới, nghi trượng. Quân Minh biết là quân dân các vùng gần đó đều theo về nghĩa quân, mỗi ngày một cùng quẫn, lại đắp thêm tường lũy, liều chết cố thủ, để đợi viện binh. .<ref>Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, dịch giả Ngô Thế Long, trang 232</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 339</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư bản điện tử[http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf]</ref>
=== Hạ thành Xương Giang ===
Mùa thu, tháng 9, năm Đinh Mùi, Trần Nguyên Hãn được phong làm Thái úy, Lê Lợi sai Thái úy Trần Nguyên Hãn, Tư mã Lê Sát, thiếu úy Lý Triện , Nguyễn Lý, đánh hạ thành Xương Giang.<ref>Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, dịch giả Ngô Thế Long, trang 233</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 349</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư bản điện tử[http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf]</ref>
Tướng chỉ huy nhà Minh là Kim Dận giữ thành này để bảo vệ con đường rút về Bắc của quân Minh, cùng với người mới nhận chức là Lý Nhậm, ra sức cố thủ. Nghĩa quân bao vây hơn 6 tháng, đánh nhau ở Khoái Châu, Lạng Giang không phân thắng bại. Nghĩa quân không lên được thành, Lê Lợi thấy viện binh của quân Minh sắp đến, mới sai các tướng, trong đó có Trần Nguyên Hãn, ra đánh gấp.Lê Lợi sai các tướng đắp đất, mở đường đánh nhau với quân Minh, đào đường ngầm, dùng câu liên, giáo, nỏ cứng, hỏa tiễn, hỏa pháo, bốn mặt cùng đánh, không đầy một giờ đã hạ được thành. Lý Nhậm và Kim Dận tự sát. Nghĩa quân thu vàng lụa, con gái đem chia đều cho binh sĩ. Vương Thông nghe tin thua trận phải làm văn tế.<ref>Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, dịch giả Ngô Thế Long, trang 233</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 349</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư bản điện tử[http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf]</ref>
=== Tham gia đánh bại cánh quân của Thôi Tụ, hoàng Phúc===
Ngày 18, tháng 9 năm Đinh Mùi (1427), Tổng binh Chinh lỗ tướng quân Thái tử thái phó An Viễn hầu Liễu Thăng, Tham tướng Bảo Định bá Lương Minh, Đô đốc Thôi Tụ, Binh bộ thượng thư Lý Khánh, Công bộ thượng thư Hoàng Phúc, thổ quan Hữu bố chính sứ Nguyễn Đức Huân đem hơn 10 vạn quân và 2 vạn ngựa đánh vào cửa Pha Lũy. Chinh Nam tướng quân thái phó Kiềm quốc công Mộc Thạnh, Tham tướng Hưng An bá Từ Hanh, Tân Ninh bá Đàm Trung đem 5 vạn quân và 1 vạn ngựa đánh vào cửa Lê Hoa. <ref>Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, dịch giả Ngô Thế Long, trang 233</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 350</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư bản điện tử[http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf]</ref>
Ngày 20, cánh quân do Liễu Thăng chỉ huy bị Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Lãnh, Đinh Liệt, Lê Thụ đánh bạo ở Chi Lăng, Liễu Thăng bị chém ở núi Mã Yên. Ngày 25, Lê Lợi sai Lê Lý và Lê Văn An đem 3 vạn quân tiếp viện, đánh bại cánh quân này ở Mã Yên, Lương Minh bị giết. Ngày 28, Lý Khánh bị giết, Thôi Tụ, Hoàng Phúc dẫn quân tiến lên, Nhân Chú lại đánh bại cánh quân này, chém được hơn 2 vạn người, bắt được lừa ngựa, trâu bò, quân tư khí giới nhiều không kể xiết.<ref>Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, dịch giả Ngô Thế Long, trang 233</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 350</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư bản điện tử[http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf]</ref>
Mùa đông, tháng 10, vua sai Lê Lý và Lê Văn An đem 3 vạn quân bao vây bốn mặt, lại dựng rào lũy ở tả ngạn sông Xương Giang để ngăn chặn. Bọn Tụ không còn mưu kế gì khác, đành phải đắp lũy giữa cánh đồng để tự vệ. Thôi Tụ ngỡ là thành Xương Giang chưa bị phá, dẫn quân định đến đó. Khi tới nơi thì thành Xương Giang đã bị mất, Thôi Tụ hết cả hy vọng, lại càng kinh hoàng sợ hãi. Gặp lúc trời báo tai biến, mưa to gió lớn, núi rừng gầm thét, người ngựa nhìn nhau không nhích lên được bước nào. Quân Minh chỉ còn cách đợi đến đêm vắng, bắn súng làm tín hiệu báo cho hai thành Đông Quan và Chí Linh để họ nghe thấy tiếng súng thì ra cứu viện. Nhưng Đông Quan và các thành khác tự cứu còn chưa xong, biết đâu đến chỗ khác. Lê Lợi bèn sai các quân thủy, bộ cùng tiến quân bao vây. Lại chia quân chặn hết các ải Mã Yên, Chi Lăng, Pha Lũy, Bàng Quan. Thôi Tụ và Hoàng Phúc muốn tiến cũng không được, muốn lui cũng không xong, bèn giả hòa, nhưng âm mưu định chạy vào thành Chí Linh. Lê Lợi biết được kế, kiên quyết khước từ không cho hòa. <ref>Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, dịch giả Ngô Thế Long, trang 233</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 350</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư bản điện tử[http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf]</ref>
Kế đó, Trần Nguyễn Hãn chặn đứng đường vận chuyển lương thực quân Minh, sai Phạm Vấn, Lê Khôi, đem 3 nghìn quân Thiết đột, 4 thớt voi, cùng với Lê Sát, Nguyễn Lý, Lê Nhân Chú, Lê Văn An tấn công. Ngày 15, quân Minh đại bại, ta chém hơn 5 vạn thủ cấp, bắt sống bọn Thôi Tụ, Hoàng Phúc và hơn 3 vạn tên, thu được vũ khí, ngựa chiến, vàng bạc, vải lụa nhiều không kể xiết. Còn những kẻ chạy trốn thì trong khoảng không đến 5 ngày đều bị bọn chăn trâu kiếm củi bắt gấn hết, không sót một ai.<ref>Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, dịch giả Ngô Thế Long, trang 233</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 350</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư bản điện tử[http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf]</ref>
=== Hội thề Đông Quan ===
Tại Đông Quan, cho tới sau trận chiến trên cánh đồng Xương Giang, [[Vương Thông (nhà Minh)|Vương Thông]] vẫn chưa thật bụng muốn "hòa". Thông dốc hết quân số trong thành và cố công kích ra ngoài nhưng không thành công, bản thân bị ngã ngựa, suýt bị bắt sống. Chỉ tới khi bị quân Lam Sơn đắp 2 chiến lũy chắn ngay cửa Nam và Bắc của thành (khi này muốn ra thì bắt buộc hoặc phải phá lũy, hoặc phải đi 2 cửa khác là những chỗ mà rất dễ là đối phương đã phục sẵn), và nhận liền 7 bức thư của [[Nguyễn Trãi]], với những phân tích và lời lẽ vừa đe dọa, vừa tỏ ý sẵn sàng thiện chí, Thông mới chịu "hòa" và chấp nhận tổ chức một hội thề để chính thức tuyên bố rút quân về nước.
Hàng 92 ⟶ 72:
==Chức vụ và khen thưởng ==
Khoảng năm 1424-1425, Trần Nguyên Hãn là Tư đồ. Năm 1427, sau chiến tích hãm [[Hà Nội#Thăng Long, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh|Đông Quan]], ông được phong là [[Thái uý|Thái úy]].<ref>đã dẫn bên trên</ref>
[[Đại Việt sử kí toàn thư]] ở chương X viết "Đại hội các tướng và các quan văn võ để định công, ban thưởng, xét công cao thấp mà định thứ bậc. Lấy thừa chỉ [[Nguyễn Trãi]] làm Quan phục hậu (冠服候); tư đồ Trần Hãn làm Tả tướng quốc; Khu mật đại sứ [[Phạm Văn Xảo]] làm Thái Bảo; đều được ban quốc tính"<ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 362</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư bản điện tử[http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf]</ref>
== Cái chết ==
|