Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lâm Thành Nguyên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Tiểu sử quân nhân
'''Lâm Thành Nguyên''' (1904-1977), tự '''Hai Ngoán''', là một chỉ huy quân sự cao cấp của lực lượng vũ trang giáo phái Hòa Hảo từ 1940-1955, từng giữ chức Phó tổng tư lệnh quân đội Hòa Hảo.
| hình=
| tên= Lâm Thành Nguyên
| biệt danh= Hai Ngoán
| ngày sinh= 1904
| nơi sinh= Nhơn Nghĩa, Cần Thơ, VN
| ngày mất= 1977
| nơi mất= Sài Gòn
| phục vụ= Lực lượng Vũ trang Giáo phái Hòa Hảo<br/>Quân đội Quốc gia Việt Nam
| năm phục vụ= 1940-1955
| cấp bậc= [[Hình: US-O9 insignia.svg|35px]] [[Trung tướng]]
| đơn vị= Lực lượng Dân xã Nguyễn Trung Trực
| chỉ huy= Lực lượng Vũ trang Hòa Hảo<br/>Quân đội Quốc gia
| công việc khác= Chủ tịch Hội cựu Chiến sĩ Hòa Hảo
}}
 
'''Lâm Thành Nguyên''' (1904-1977), tự '''Hai Ngoán''', là một chỉ huy quân sự cao cấp của Lực lượng Vũ trang Giáo phái Hòa Hảo. Xuất thân từ trường Huấn luyện Quân sự Nghĩa đinh Cái Vồn do Quân đội Pháp mở ra ở miền Tây Nam phần. Ông từng giữ chức Phó Tổng tư lệnh quân đội Hòa Hảo. Sau đó, ông ra hợp tác với Chính phủ Quốc Gia và được phong cấp [[Đại tá]], sau lên đến hàm [[Trung tướng]] trong Quân đội Quốc gia.
==Thân thế và binh nghiệp==
 
==ThânTiểu thếsử & binhBinh nghiệp==
Ông có tên tục là '''Hai Ngoán''', sinh năm 1904 tại Nhơn Nghĩa, [[Cần Thơ]]. Xuất thân từ gia đình đại điền chủ ở vùng Bảy Núi, được gia đình cho đi ăn học cả văn lẫn võ từ nhỏ. Do ảnh hưởng tôn giáo của vùng Thất Sơn, ông gia nhập đạo Hòa Hảo từ rất sớm, khoảng cuối thập niên 1930.
 
Hàng 8 ⟶ 24:
Sau khi trường Cái Vồn đóng cửa, ông và Trần Văn Soái tập hợp một số tín đồ thành lập đội hộ vệ cho giáo chủ [[Huỳnh Phú Sổ]], dưới sự hậu thuẫn của người [[Nhật]], dần dần mở rộng thành các đội Bảo an bán quân sự, bảo vệ cho các vùng có đông tín đồ.
 
[[Cách mạng tháng 8]] nổ ra, tuy nhiên không đầy 1 tháng sau, quân Pháp dưới sự yểm trợ của quân Anh đã nổ súng tái chiếm Nam Bộ. Nhằm tạo ra thế đối trọng với [[Việt Minh]], về mặt chính trị, Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ cho thành lập [[Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng]], về quân sự, thống nhất các đội Bảo an thành một lực lượng vũ trang chung. Tháng 12 năm 1946, Lâm Thành Nguyênông được Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ phong cấp bậc [[Thiếu tá]] lựctrong Lực lượng quân sự Hòa Hảo. Không lâu sau, ông được phong cấp [[Trung tá]].
 
Sau khi giáo chủ Huỳnh Phú Sổ đột ngột mất tích, các nhóm quân sự của lực lượng vũ trang Hòa Hảo bị chia rẽ. Lực lượng quân sự Hòa Hảo mạnh nhất của Trần Văn Soái, mang danh nghĩa Quân đội Hòa Hảo, với khoảng 7.000 quân, hoạt động tại Cần Thơ, Vĩnh Long, đặt bản doanh tại Cái Vồn. Bấy giờ, Lâm Thành Nguyênông đưa các đơn vị dưới quyền hợp tác với tướng Năm Lửa, được phong chức vụ Tư lịnhlệnh phó. Trên thực tế, với lực lượng bản bộ khoảng 3.000 quân, ông hầu như tự trị tại khu vực Châu Đốc-Hà Tiên.
 
Chính vì vậy, khi ông Trần Văn Soái tự phong cấp bậc Thiếu tướng, và ký kết Hiệp định Liên quân với Đại tá Cluzet, Tư lệnh Phân khu Tây Nam Bộ của Pháp, theo đó thì lựcLực lượng quân sự của giáo phái Hòa Hảo sẽ được quân đội Pháp hậu thuẫn và xem như là Lực lượng Bổ sung (Suppletif Forces) để chống Việt Minh. Bất mãn điều này, ông tuyên bố ly khai với lực lượng của tướng Năm Lửa. Mãi đến khi chính phủ [[Quốc gia Việt Nam]] được thành lập năm 1949, ông mới tuyên bố hợp tác với chính phủ và ngày 14-2 năm này ông được Quốc trưởng [[Bảo Đại]] phong cấp bậc [[Đại tá]]. NămĐến năm 1953, ông được vinh thăng cấphàm [[Thiếu tướng]].
 
Ngày 13-8-1954, ông giữ chức Tư lệnh Lực lượng Hòa Hảo Dân xã Nguyễn Trung Trực. Ngày 24-9 cùng năm, ông được vinh thăng hàm [[Trung tướng]]
Tháng 5 năm 1954, người Pháp thất bại tại [[trận Điện Biên Phủ]], chính quyền Thủ tướng [[Ngô Đình Diệm]] được thành lập, cố gắng giành ảnh hưởng chính trị trước thắng lợi quân sự của Việt Minh. Dưới sự hậu thuẫn của người Mỹ, Thủ tướng Diệm quyết tâm loại trừ ảnh hưởng của người Pháp cũng như các thế lực cát cứ. Các nhóm chính trị đối lập ủng hộ Quốc trưởng Bảo Đại thành lập [[Mặt trận Thống nhứt Toàn lực Quốc gia]] do Hộ pháp [[Phạm Công Tắc]] làm Chủ tịch, gửi một kiến nghị yêu cầu Thủ tướng Diệm trong vòng 4 ngày phải cải tổ nội các với sự thỏa thuận của Mặt trận. Ông với tư cách là người đồng ký tên kiến nghị và thành viên phái đoàn được ủy nhiệm thảo luận và vào [[dinh Độc Lập]] trao kiến nghị.
 
Tháng 5 nămNăm 1954, người Pháp thất bại tại [[trận Điện Biên Phủ]], chính quyền Thủ tướng [[Ngô Đình Diệm]] được thành lập, cố gắng giành ảnh hưởng chính trị trước thắng lợi quân sự của Việt Minh. Dưới sự hậu thuẫn của người Mỹ, Thủ tướng Diệm quyết tâm loại trừ ảnh hưởng của người Pháp cũng như các thế lực cát cứ. Các nhóm chính trị đối lập ủng hộ Quốc trưởng Bảo Đại thành lập [[Mặt trận Thống nhứt Toàn lực Quốc gia]] do Hộ pháp [[Phạm Công Tắc]] làm Chủ tịch, gửi một kiến nghị yêu cầu Thủ tướng Diệm trong vòng 4 ngày phải cải tổ nội các với sự thỏa thuận của Mặt trận. Ông với tư cách là người đồng ký tên kiến nghị và thành viên phái đoàn được ủy nhiệm thảo luận và vào [[dinhDinh Độc Lập]] trao kiến nghị.
 
Tuy nhiên, kiến nghị bị Thủ tướng Diệm bác bỏ ngay lập tức. Các chính khách đối lập từ chức trong chính phủ, các chỉ huy quân sự tuyên bố ly khai. Tướng Lâm Thành Nguyên cũng đưa lực lượng bản bộ về tổng hành dinh ở Cái Dầu. Tuy nhiên, Thủ tướng Diệm vẫn không thay đổi quyết tâm giải tán các lực lượng vũ trang cát cứ, thống nhất quân đội.
Hàng 20 ⟶ 38:
Sau khi nhanh chóng dập tắt cuộc nổi loạn của lực lượng Bình Xuyên do tướng [[Bảy Viễn]] cầm đầu và vô hiệu hóa âm mưu binh biến của tướng [[Nguyễn Văn Vỹ]], lực lượng quân đội ủng hộ Thủ tướng Diệm mở chiến dịch Đinh Tiên Hoàng ngày [[5 tháng 6]] năm 1955, tấn công các đơn vị vũ trang Hòa Hảo ly khai. Trước đó, lực lượng quân sự dưới quyền tướng [[Nguyễn Giác Ngộ]] ra tuyên bố quy thuận Thủ tướng Diệm. Các căn cứ Cái Vồn (Năm Lửa), Cái Dầu (Hai Ngoán) và Thốt Nốt (Ba Cụt) nhanh chóng thất thủ. Các đơn vị Hòa Hảo, lớp tan rã, lớp theo các chỉ huy rút chạy về khu vực biên giới Campuchia.
 
Riêng tướng Hai Ngoán, sau khi rút quân về Chợ Mới, đã cho người liên lạc đồng ý quy thuận chính phủ Thủ tướng Diệm với điều kiện vẫn giữ được tài sản. Điều kiện này đã được Thủ tướng Diệm chấp thuận và thăngđồng ônghoá lêncấp bậc [[Trung tướng]] cho ông trong hệ thống Quân đội Quốc gia. Ông cho các lực lượng trung thành tập hợp về khu vực núi Cấm để chờ tiếp thu, còn bộ chỉ huy được phép trở về căn cứ Cái Dầu. Mặc dù vậy, ông vẫn ngầm giúp đỡ các đơn vị của tướng Năm Lửa, Ba Cụt. Do đó, về sau, Thủ tướng, sau này là Tổng thống Ngô Đình Diệm không cho ông giữ bất kỳ một vai trò nào trong chính quyền của như trong quân sự, đồng thời quản thúc ông một cách chặt chẽ. Tuy nhiên vào cuối năm 1955, ông được giải ngũ.
 
Mãi sau khi Tổng thống Diệm bị lật đổ, những điều kiện quản thúc mới được dỡ bỏ. Nhằm mục đích trở lại hoạt động chính trường, ông đã tập hợp các đồng chí và thành lập Hội Cựu chiến sĩ Hòa Hảo – Dân Xã (sau đổi thành Tập đoàn Cựu chiến sĩ Hòa Hảo - Dân Xã) do ông làm Chủ tịch. Mặc dù mang danh nghĩa một đoàn thể ái hữu xã hội, nhưng trên thực tế là một tổ chức chính trị, hoạt động theo giấy phép Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa số 4085/BNV/KS cấp ngày 08-05-1964. Từ năm 1966 đến 1969, ông là thành viên Ủy ban Lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng thống nhứt. Năm 1970, Tập đoàn Cựu chiến sĩ Hòa Hảo - Dân Xã được hợp thức hóa bởi Nghị định số 457/BNV/KS/14 ngày 29-6-1970 theo luật 009/69 ấn định qui chế chánh đảng và đối lập chánh trị, trở thành tổ chức chính trị. Với tổ chức này, ông tham gia hoạt động trong chính trường với khối Tự Quyết và Liên minh Dân chủ Xã hội từ cuối năm 1972 đến đầu năm 1975.
 
Sau ngày [[30 tháng 4]] năm 1975, ông bị chính quyền mới đưa đi cải tạo và đã quatừ đờitrần trong tình trạng giam giữ vào năm 1977 tại Đề lao Chí Hòa, Sài Gòn.
 
==Tham khảo==
{{tham khảo}}
* Theo: "Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa" (Danh sách Trung tướng Việt Nam Cộng hòa). Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy 2011.
 
* Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011), ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa'', tr 185
 
{{tham khảo}}
* Lê Thành Thảo, ''Sinh hoạt Phật giáo Hòa Hảo trong cộng đồng quốc gia'', Viện Đại học Saigon, Trường Đại học Văn khoa (1974)
Hàng 33 ⟶ 54:
 
{{thời gian sống|1904|1977}}
[[Thể loại:Người Cần Thơ]]
[[Thể loại:Trung tướng Quốc gia Việt Nam]]
[[Thể loại:Người Cần Thơ]]