Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà tài trợ (thương mại)”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n sửa chính tả 3, replaced: ( → ( (4), Châu Á → châu Á using AWB |
→Các lý thuyết: lủng củng |
||
Dòng 16:
Hầu hết sử dụng khái niệm là một thương hiệu (nhà tài trợ) và sự kiện (Được tài trợ) trở nên liên kết với nhau trong trí nhớ thông qua sự tài trợ và kết quà là sự suy nghĩ về thương hiệu có thể gợi nhớ đến các sự kiện liên kết, trong khi giúp đỡ mọi người đi qua chốt giao thông của sự kiện coá thể trở nên quen thuộc với sự liên kết thương hiệu. Cornwell, Weeks and Roy (2005)<ref>[http://www.jstor.org/stable/4189295 Cornwell, T. B., Weeks, C. S., & Roy, D. P. (2005).]</ref> đã công bố một xem xét mở rộng về lý thuyết được sử dụng để giải thích tác động của tài trợ thương mại.
Một trong nhưng phát
== Phân loại ==
Dòng 45:
Các dự án IEG chi tiêu cho sự tài trợ toàn cầu tăng lên 5.2% trong năm 2011 lên đến 46.3 tỷ đô. Trừ các khoản chi bởi các công ty Mỹ, phần còn lại của các nhà tài trợ thế giới chi tiêu đến 29.1 tỷ đô cho quan hệ đối tác trong năm 2010 và các dự án IEG mà tổng tăng 4.8% tới 30.5 tỷ đô trong năm 2011.
Châu
Pháp luật ngành công nghiệp truyền hình giải trí xung quanh vị trí sản phẩm đã dẫn đến một số lượng nhỏ nhưng tăng lên trong tài trợ các chương trình tivi tại Uk. Tuy nhiên, tài trợ thương mại của các đội thể thao và cầu thủ Anh là một ngành công nghiệp tiền tỷ. Ví dụ, Adidas trở thành nhà tài trợ và người cung cấp của bộ dụng cụ Manchester United trong suốt mười mùa thi đấu, trong đợt tài trợ năm 2014 với giá trị tối thiểu là 750 triệu Bảng (Nhiều hơn 1.1 tỷ đô la Mỹ)
|