Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tống Thần Tông”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: → (2) using AWB |
|||
Dòng 90:
[[Lý Thường Kiệt]] ra lệnh tiêu hủy thành lũy, phá kho tàng dự trữ trong vùng Tả Giang và lấy đá lấp sông chặn đường cứu viện của quân Tống, sau đó lui về nước và bố trí phòng thủ đợi quân Tống sang. Đầu năm 1076 [[nhà Tống]] mới biết tin ba thành bị đánh. Ngày [[9 tháng 2]] năm [[1076]], Tống Thần Tông hạ chiếu thảo phạt [[Đại Việt]]<ref name="TTTTG71" />, cử [[Triệu Tiết]] và [[Quách Quỳ]] thống lĩnh 10 vạn quân chia làm 2 cánh đánh Đại Việt: đường bộ do Quách Quỳ và Triệu Tiết chỉ huy<ref>''[[Tống sử]]'', [[:zh:s:宋史/卷332|quyển 332]]</ref>, đường thủy do Dương Tiến Tùng chỉ huy. Phía quân Việt, Lý Thường Kiệt cho đắp phòng tuyến tại [[sông Như Nguyệt]] kéo dài khoảng 30 km suốt từ chân dãy núi Tam Đảo ngã ba sông Cà Lồ-sông Cầu tới Vạn Xuân (Phả Lại) lợi dụng các địa hình tự nhiên như bãi lầy, gò cao và cả các chiến lũy bằng đất, gỗ, rào tre. Ngày [[8 tháng 1]] năm [[1077]], quân Tống tiến vào nước Việt, sau nhiều trận giằng co ác liệt, hai bên đều chịu nhiều tổn thất nhưng quân Tống đã áp sát phòng tuyến trên sông.
Ngày [[18 tháng 1]], quân Tống
=== Chiến tranh với Tây Hạ ===
Dòng 100:
Năm [[1081]], Tống Thần Tông cho rằng đây là thời cơ để tấn công Tây Hạ. Ông điều động 20 vạn quân chia làm 5 ngả tiến đánh thành Linh Châu, Lý Hiến làm Ngũ lộ đại quân thống soái, xuất phát từ Hi Hà lộ. [[Chủng Ngạc]] đến Phu Diên quân, [[Cao Tuấn]] đến Hoàn Khánh lộ, [[Lưu Xương Tạc]] đến Kính Nguyên lộ, [[Vương Trung Chính]] đến Hà Đông lộ. Quân Kinh Nguyên và Hoàn Khánh trước thủ Linh châu, sau đánh thẳng vào Hưng Khánh phủ. Quân Hà Đông và Phu Diên hội tại Hạ châu, đánh Hoài châu, cuối cùng tiến đánh trực tiếp Hưng Khánh phủ. Thủ lĩnh Giác Tư La Quốc Thổ Phồn là Đổng Chiên cũng phái binh chi viện, vượt Hoàng Hà đánh Lương châu<ref>''[[Tục tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:續資治通鑑/卷076|quyển 76]]</ref>.
Triều đình Tây Hạ dùng
=== Những năm cuối cùng ===
|