Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quốc dân Cách mệnh Quân”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
AlphamaEditor, Executed time: 00:00:48.7007855 using AWB |
||
Dòng 1:
{{Infobox military unit
|unit_name = Quốc dân Cách mệnh Quân<br>國民革命軍<br>Guómín Gémìng Jūn
|image = [[
|caption = Quân kỳ của Quốc dân Cách mệnh Quân (sau trở thành quân kỳ của Lục quân Quốc quân Trung Hoa Dân quốc sau 1947)
|dates = 1925–1947
Dòng 40:
== Lịch sử ==
===Đảng lãnh đạo quân đội===
[[
[[Tôn Trung Sơn]] về danh nghĩa lãnh đạo chính phủ Hộ pháp quân ở Nam Trung Quốc, nhưng trên thực tế phải dựa vào thực lực quân sự của các quân phiệt phương Nam. Sau [[sự biến ngày 16 tháng 6]], khi quân phiệt [[Trần Quýnh Minh]] làm binh biến, tấn công phủ Tổng thống, Tôn hiểu rằng các quân phiệt luôn muốn duy trì tình trạng cát cứ, không muốn thống nhất, vì vậy, ông quyết định phải xây dựng một lực lượng vũ trang của riêng Quốc dân Đảng để làm nòng cốt quân sự vũ lực thống nhất Trung Quốc. Năm 1924, sau khi từ [[Liên Xô]] về, Tôn thành lập [[trường Quân sự Hoàng Phố]] tại [[Quảng Châu]]. Tháng 2 năm 1925, lực lượng vũ trang của Quốc dân Đảng với nòng cốt chỉ huy là các sĩ quan trường Hoàng Phố đã đánh bại quân phiệt Trần Quýnh Minh, triệt tiêu toàn bộ thế lực quân phiệt tại Quảng Đông, xây dựng căn cứ địa phát triển thế lực.
Sau khi [[Tôn Trung Sơn]] qua đời, tháng 7 năm 1925, Hộ pháp chính phủ tại Quảng Châu cải tổ lại thành Quốc dân chính phủ, quyết tâm thực hiện đường lối thống nhất Trung Quốc mà Tôn để lại, thành lập cơ quan lãnh đạo quân sự tối cao là [[Quốc dân Chính phủ Quân sự Ủy viên Hội]]. Ngày 18 tháng 8 năm 1925, Quân ủy hội ra quyết định giải thể cái đội quân địa phương, thống nhất danh xưng '''Quốc dân Cách mệnh Quân''', gọi tắt là '''Quốc quân''', tổ chức quân sự theo những nguyên tắc cơ bản của [[Chủ nghĩa Tam dân]], gần như hợp nhất các vai trò lãnh đạo nhà nước và quân đội vào tay Quốc dân Đảng. Ban đầu, lấy các đơn vị do sĩ quan xuất thân học viên trường Hoàng Phố là chủ lực, biên chế thành 6 đơn vị cơ bản gọi là Quân (tương đương [[quân đoàn]], đánh số từ 1 đến 6.<ref name="海">{{
Mặc dù có nòng cốt là các sĩ quan học viên Hoàng Phố, nhưng chính phủ Quốc dân chỉ mới khống chế được Quảng Châu, so thế lực với quân phiệt các tỉnh hãy còn kém xa. Vì vậy, để nhanh chóng tăng cường quân lực, chính phủ Quốc dân chủ trương tiếp thu thêm các lực lượng vũ trang địa phương. Tháng 1 năm 1926, sát nhập các lực lượng [[Công Ngạc quân]] của Hồ Nam, Cảnh vệ quân của [[Ngô Thiết Thành]], Triều Mai quân của Quảng Đông, thành lập [[Quân đoàn VI, Quốc dân Cách mệnh Quân|Đệ lục quân]], do [[Trình Tiềm]] là Quân trưởng. Tháng 3, thu nạp thêm lực lượng quân phiệt Tân Quế hệ ở [[Quảng Tây]] cải tổ thành [[Quân đoàn VII, Quốc dân Cách mệnh Quân|Đệ thất quân]], do [[Lý Tông Nhân]] làm Quân trưởng. Tháng 6, lực lượng quân phiệt Hồ Nam của [[Đường Sinh Trí]] bị [[Ngô Bội Phu]] đánh bại, quy phục chính phủ Quốc dân, được cải tổ thành [[Quân đoàn VIII, Quốc dân Cách mệnh Quân|Đệ bát quân]].
Dòng 73:
Cơ quan lãnh đạo tối cao của Quốc dân Cách mệnh Quân là [[Quốc dân Chính phủ Quân sự Ủy viên hội]] (''國民政府軍事委員會''), gọi tắt là Quân ủy Hội. Dưới sự chủ trì của Tưởng Giới Thạch, nó chỉ đạo trực tiếp các hoạt động chỉ huy và tham mưu. Đến năm 1937, [[Bộ Tổng tham mưu Quốc quân Trung Hoa Dân quốc|Bộ Tổng tham mưu]] được thành lập dưới sự lãnh đạo của [[Tổng tham mưu trưởng Quốc quân Trung Hoa Dân quốc|Tổng tham mưu trưởng]], tướng [[Hà Ứng Khâm]], trở thành cơ quan giúp việc của Quân ủy Hội, chỉ đạo các lực lượng trên không, trên biển và trên bộ của Quốc dân Cách mệnh Quân.
Trong suốt thời gian hoạt động của mình, Quốc dân Cách mệnh Quân được cho là đã có 4.300.000 lượt binh sĩ chính quy, chiến đấu trong 515 [[sư đoàn]], trong đó có 370 sư đoàn chính thức (''正式師''), 46 sư đoàn tân biên (''新編師''), 12 sư đoàn kỵ binh (''騎兵師''), 8 sư đoàn kỵ binh tân biên (''新編騎兵師''), 66 sư đoàn tạm thời (''暫編師''), và 13 sư đoàn dự bị (''預備師''). Tuy nhiên, rất nhiều sư đoàn được thành lập từ hai hay nhiều bộ phận khác, và đã không hoạt động cùng một lúc. Thường một sư đoàn tân biên được tạo ra để thay thế và được mang phiên hiệu cũ của sư đoàn chính thức đã bị thiệt hại. Do đó, số lượng các sư đoàn đang hoạt động ở bất kỳ thời điểm đều nhỏ hơn nhiều so số phiên hiệu lớn nhất. Trung bình, một sư đoàn Quốc dân Cách mệnh Quân có khoảng 5.000–6.000 quân, các sư đoàn lục quân chính quy có thể lên đến 10.000–15.000 quân, tương đương với một sư đoàn Lục quân Đế quốc Nhật Bản.
=== Tổ chức đơn vị ===
Dòng 87:
**** Quân ×30 (軍)
***** [[Quân đoàn]] ×133 (軍團)
****** [[Lữ đoàn|Sư đoàn (師) <br>
******* [[Lữ đoàn]] (旅)
******** [[Trung đoàn]] (團)
Dòng 96:
== Chú thích==
{{
==Tham khảo ==
|