Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chủ nghĩa tiến bộ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: . → . using AWB
Dòng 1:
'''Chủ nghĩa tiến bộ''' hay '''chủ nghĩa cấp tiến''' ({{lang-de|Progressivismus}} từ {{lang-la| Progressio, Tiến bộ}}) biểu thị một triết lý chính trị được xây dựng trên ý tưởng về sự tiến bộ, khẳng định sự tiến bộ trong khoa học, công nghệ, phát triển kinh tế, tổ chức xã hội là rất quan trọng để cải thiện tình trạng của con người. Vì vậy, nó là phong trào chống lại [[chủ nghĩa bảo thủ]]. Nguồn gốc của chủ nghĩa tiến bộ bắt đầu từ thời đại [[Khai sáng]], từ lòng tin tưởng là châu Âu đang chứng minh các xã hội có thể tiến bộ trong khuôn khổ từ những điều kiện dã man lên nền văn minh qua sự tăng cường cơ sở kiến ​​thức thực nghiệm là nền tảng của xã hội.<ref name="Harold Mah 1914. p157">Harold Mah. [https://books.google.com/?id=WVlGIelNNNcC&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false Enlightenment Phantasies: Cultural Identity in France and Germany, 1750-1914]. Cornell University. (2003). p157.</ref> Nhiều nhân vật thời Khai sáng tin tưởng rằng tiến bộ có thể áp dụng phổ quát cho tất cả các xã hội và những ý tưởng này sẽ lây lan ra toàn thế giới từ châu Âu. <ref name="Harold Mah 1914. p157"/> Nhà xã hội học Robert Nisbet định nghĩa năm "cơ sở quan trọng" của ý tưởng của tiến bộ: giá trị của quá khứ; sự cao quý của nền văn minh phương Tây; giá trị tăng trưởng kinh tế / công nghệ; kiến ​​thức khoa học / học thuật thu thập được thông qua lý trí hơn là đức tin; tầm quan trọng của thực chất và giá trị của sự sống trên Trái đất.<ref>Nisbet, Robert (1980). History of the Idea of Progress. New York: Basic Books. p. 4.</ref> Ngoài ra, ý nghĩa của chủ nghĩa tiến bộ thay đổi theo thời gian và từ những phối cảnh khác nhau.
 
==Thuật ngữ==
Chủ nghĩa tiến bộ nổi lên như một dòng chính trị, là một phản ứng với những thay đổi xã hội trong thời kỳ [[công nghiệp hóa]]. Những bất bình đẳng xã hội quá mức của quá trình phát triển công nghiệp tạo ra sự sợ hãi có thể cản trở tiến bộ hơn nữa, bởi vì các tập đoàn độc quyền khổng lồ và tình trạng bất ổn bạo động giữa người lao động và những nhà tư bản. <ref>[[Walter Nugent]]: ''Progressivism: A Very Short Introduction'', [[Oxford University Press]] (2010), ISBN 9780195311068, Seite 2</ref>
 
==Lịch sử==
Dòng 15:
Cánh Tả của DFP cũng tách ra thành lập Đảng Nhân dân Đức (DtVP), một đảng tự do cánh Tả. Trái ngược với Đảng Tự do Quốc gia, đảng này đặt nặng các quyền tự do cổ điển hơn là một nước Đức thống nhất dưới Bismarck.
 
Sau khi [[Đế chế Đức]] được thành lập, DFP nhấn mạnh về chính sách kinh tế và việc giảm các hạn chế thương mại cũng như hỗ trợ chính sách [[Kulturkampf]] của Bismarck .
 
DtVP, tuy nhiên, ngay sau khi thành lập Đế chế Đức, chủ trương các cơ cấu liên bang và kêu gọi cải cách dân chủ, đặc biệt là gia tăng quyền lực cho Quốc hội. Họ ủng hộ sự tách biệt giữa nhà thờ và nhà nước, nhưng chống lại luật khẩn cấp chống Công giáo của Bismarck và " luật chống người xã hội chủ nghĩa". Họ cũng hỗ trợ phát triển của pháp luật xã hội, bắt đầu bởi Bismarck và được đảng Tự do Quốc gia hỗ trợ, đặt nền móng cho [[nhà nước phúc lợi]]. Trong khi các thành viên chủ yếu là từ những người thợ nghề và hoạt động thương mại, nông dân và nhân viên, các lãnh đạo đảng đa số là các học giả và doanh nhân.