Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lực lượng Dân sự chiến đấu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: tháng Giêng năm → tháng 1 năm (2) using AWB
Dòng 6:
*Chính phủ Mỹ cho rằng nên vũ trang nhóm người Dân tộc thiểu số để chống lại sự xâm nhập của [[Cộng sản]].
*[[Người Thượng]] và các dân tộc thiểu số nói chung là đối tượng chính cho việc tuyên truyền của cộng sản, họ bất bình với Chính quyền [[Việt Nam Cộng hòa]], lại dễ bị cộng sản lợi dụng, lôi kéo và tuyển mộ.
Đến tháng Giêng1 năm 1965, trước khi Chính phủ Mỹ đem quân vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam Việt Nam, [[Quân đội Hoa Kỳ|Bộ Tư lệnh Binh chủng Biệt kích Mỹ]] đã hoạch định "Kế hoạch chống xâm nhập", gửi đến Bộ chỉ huy [[Quân đội Hoa Kỳ|Liên đoàn Biệt kích số 5]] và các Ban chỉ huy Vùng, cùng các toán Biệt kích, trong đó xác định rõ: "Kế hoạch chống xâm nhập của Lực lượng Biệt kích là một chương trình hỗn hợp, phối hợp giữa Quân sự với Dân sự, nhằm thực hiện ba mục tiêu cơ bản sau:
#Loại trừ [[Việt Cộng]], thiết lập an ninh trên địa bàn được giao.
#Bảo đảm sự kiểm soát của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đối dân chúng trong vùng.
Dòng 27:
Vào năm 1963, Quân đội Mỹ nhận thấy rằng chương trình này là một thành công lớn, nhưng cũng có các đơn vị Dân sự Chiến đấu và Biệt kích quân đã không được sử dụng đúng cách, nhất là từ sau khi mở cuộc hành quân Switchback, quyền kiểm soát của chương trình Dân sự Chiến đấu đã được chuyển đổi từ CIA sang Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV). Lực lượng Dân sự Chiến đấu được mở rộng nhanh chóng, gần như toàn bộ Liên đoàn Biệt kích số 5 của Lực lượng Đặc biệt Quân đội Mỹ đã tiến vào Việt Nam, các đơn vị Dân sự Chiến đấu buộc phải ngừng tập trung vào việc phòng thủ thôn xóm và thay vào đó được dự phần trong các hoạt động thông thường hơn mà nổi bật nhất là giám sát biên giới. Cuối năm [[1964]], Lực lượng Dân sự Chiến đấu không còn là vấn đề phát triển số lượng nữa. Vì mục đích và nhiệm vụ của nó cũng thay đổi. Ngoài chức năng phòng vệ tại chỗ (giữ địa bàn nông thôn, miền núi). Các trại Dân sự Chiến đấu đều được sử dụng làm bàn đạp cho các cuộc hành quân tấn công vào căn cứ Việt Cộng. Với sự điều chỉnh chức năng trên sẽ làm tăng phần hiệu quả cho việc kiểm soát khu vực biên giới, thông qua việc Lực lượng Biệt kích Mỹ triển khai xây thêm một số đồn, trạm biên phòng.
 
Trong cuộc hành quân Switchback (từ tháng 11 năm 1962 đến tháng 7 năm 1963), các hoạt động tấn công của Lực lượng Xung kích Dân sự Chiến đấu như: phục kích, tuần tiễu, thám sát tại địa bàn phụ trách của mỗi trại. Ngoài ra, những cuộc hành quân phối hợp với các đơn vị của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, bao gồm Lực lượng Dân sự Chiến đấu của các trại. Chỉ tính riêng tháng 6 năm 1963, đã có bốn Đại đội Xung kích Dân sự Chiến đấu được tuyển từ các trại Đakto, Plei Mrong và Polei Kleng phối hợp hành quân lùng sục Quân đội Cộng sản. Lực lượng Vũ trang Cộng sản phản ứng lại bằng cách pháo kích, quấy rối các Đồn trại Biên phòng. Trong lúc Lực lượng Biệt kích Mỹ mở cuộc hành quân Switchback, thì các hoạt động của Cộng sản ngày càng gia tăng, hầu hết các trại Biệt kích đều bị tập kích hoặc uy hiếp, quấy rối. Ngày 3 tháng Giêng1 năm 1963, Lực lượng [[Đặc công]] cùng hai Đại đội [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam|Quân Giải phóng]] tấn công và tràn ngập trại Plei Mrong. Sau vụ tấn công của quân Bắc Việt, vấn đề phòng thủ của các đồn trại biên phòng được xem xét lại, Bộ Tư lệnh Phái bộ Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam đã ra lệnh cho các toán Biệt kích thiết lập thêm tuyến phòng thủ thứ hai, cho tất cả các đồn trạm của Lực lượng Biệt kích Mỹ. Đồng thời, tăng cường thêm hai Tiểu đoàn Công binh Hải quân (Seabee) hỗ trợ trong việc xây cất các công trình quân sự.
 
Việc sử dụng Lực lượng Dân sự Chiến đấu trong các hoạt động tuần tiễu, lục soát những địa bàn ngoài phạm vi trách nhiệm của đồn trại, thường cần có những căn cứ tiền phương và lực lượng ứng cứu. Sau đó, Lực lượng Xung kích với 20.000 quân được thành lập vào tháng 11 năm 1963. Đến tháng 7 năm 1964, được biên chế, tổ chức hoàn chỉnh, mỗi Đại đội Dân sự Chiến đấu có quân số 150 người, bao gồm Bộ chỉ huy (10 người), ba Trung đội thực binh (35 người), Trung đội hỏa lực (35 người). Mỗi trại được biên chế đủ bốn Đại đội. Hai Đại đội hoạt động bên ngoài trại, tại các căn cứ tiền phương; thường tung các Trung đội, cùng các toán Trinh sát (5 người) hoạt động trên địa bàn được phân công. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1965, Cộng sản cũng thay đổi chiến thuật từ [[chiến tranh du kích]] sang [[chiến tranh nhân dân]]. Trước thực tế trên, mọi hoạt động của Lực lượng Biệt kích Mỹ được phân làm ba loại. Một là thiết lập thêm trại Dân sự Chiến đấu nhằm ngăn chặn mức độ chuyển quân, tiếp tế của Bắc Việt. Đồng thời bỏ một số trại do áp lực quá nặng của cộng sản. Mặt khác tổ chức phòng thủ tốt các trại dọc theo biên giới như: A Sầu, Làng Vây, Cồn Thiên, Lộc Ninh, Bù Đốp... Hai là, thành lập các sở chỉ huy hành quân ngoại biên như: Sở chỉ huy hành quân Delta ở Vùng Chiến thuật I; Sở chỉ huy hành quân Black Jack 33 ở Vùng Chiến thuật III. Cả hai sở chỉ huy hành quân trên đều nằm trong "Kế hoạch hành quân Sigma". Đây là cuộc hành quân đầu tiên hối hợp giữa đơn vị Xung kích Cơ động và đơn vị Xung kích Tiếp ứng.