Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Claxton (DD-571)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 15:
|Ship builder= [[Consolidated Steel Corporation]], [[Orange, Texas]]
|Ship original cost=
|Ship laid down= [[25 tháng 6]], năm [[1941]]
|Ship launched= [[1 tháng 4]], năm [[1942]]
|Ship sponsor= bà A. D. Bernhard
|Ship completed=
|Ship acquired=
|Ship commissioned= [[8 tháng 12]], năm [[1942]]
|Ship recommissioned=
|Ship decommissioned= [[18 tháng 4]], năm [[1946]]
|Ship in service=
|Ship out of service=
|Ship renamed=
|Ship reclassified=
|Ship struck= [[1 tháng 10]], năm [[1974]]
|Ship nickname=
|Ship honors= [[Đơn vị Tuyên dương Tổng thống]];<br/> 8 × [[Ngôi sao Chiến trận]]
|Ship captured=
|Ship fate= Được chuyển cho [[Cộng hòa Liên bang Đức]], [[16 tháng 12]], năm [[1959]]
|Ship status=
}}
Dòng 38:
|Ship flag= {{shipboxflag|West Germany|naval}}
|Ship name= ''Zerstörer 4'' (D178)
|Ship acquired= [[16 tháng 12]], năm [[1959]]
|Ship struck= [[1981]]
|Ship fate= Được chuyển cho [[Hy Lạp]] để làm nguồn phụ tùng
Dòng 75:
== Thiết kế và chế tạo ==
{{main|Fletcher (lớp tàu khu trục)}}
''Claxton'' được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng [[Consolidated Steel Corporation]] ở [[Orange, Texas|Orange]], [[Texas]] vào ngày [[25 tháng 6]], năm [[1941]]. Nó được hạ thủy vào ngày [[1 tháng 4]], năm [[1942]]; được đỡ đầu bởi bà A. D. Bernhard; và nhập biên chế vào ngày [[8 tháng 12]], năm [[1942]] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, [[Trung tá Hải quân]] [[Herald F. Stout]].
 
== Lịch sử hoạt động ==
Vào [[tháng 3]], năm [[1943]], ''Claxton'' tuần tra ngoài khơi [[Casco Bay]], [[Maine]] trong một giai đoạn ngắn, canh phòng khả năng chiếc [[thiết giáp hạm]] [[Đức Quốc xã|Đức]] [[Tirpitz (thiết giáp hạm Đức)|''Tirpitz'']] xuất phát từ phía [[Na Uy]]. Sau một chuyến khứ hồi hộ tống vận tải đến [[Casablanca]], [[Bắc Phi]], nó khởi hành từ [[Charleston, South Carolina]] vào ngày [[17 tháng 5]] để gia nhập [[Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ|Hạm đội Thái Bình Dương]].
 
Sau khi được huấn luyện tại [[Nouméa]] và [[Espiritu Santo]] từ ngày [[12 tháng 6]], ''Claxton'' hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên [[Rendova]] từ ngày [[27 tháng 6]] đến ngày [[25 tháng 7]], rồi gia nhập Hải đội Khu trục 23 để tham gia [[Chiến dịch quần đảo Solomon]]. Đội của nó đã tuần tra ngăn chặn tàu bè đối phương, bảo vệ tuyến đường vận chuyển tiếp liệu và binh lính [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]], bắn phá các căn cứ đối phương, hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ, đối đầu với lực lượng tàu nổi và không quân đối phương.
Dòng 86:
Đến ngày [[25 tháng 11]], trong [[Trận chiến mũi St. George]], [[New Ireland (đảo)|New Ireland]], ''Claxton'' và bốn tàu khu trục khác đã đánh chặn một lực lượng năm tàu khu trục Nhật Bản, khi chúng tìm cách triệt thoái nhân sự hải quân từ [[đảo Buka|Buka]] trở về [[Rabaul]]. Trong trận đánh đêm này, họ gây bất ngờ cho đối phương khi tấn công bằng ngư lôi, tiếp nối bằng đối đầu hải pháo, khiến ba tàu khu trục đối phương bị đánh chìm và một chiếc thứ tư bị hư hại, mà không bị tổn thất hay hư hại gì cho phía mình.
 
Vào ngày [[4 tháng 2]], năm [[1944]], đang khi bắn phá đồn điền Sarime trên đảo Bougainville, ''Claxton'' bị hư hại nặng phía đuôi tàu, có thể do hai quả đạn pháo cỡ trung. Cho dù bị hư hại với 15 người bị thương, nó vẫn hoàn tất nhiệm vụ bằng ba khẩu pháo trước mũi, trước khi quay về để sửa chữa tạm thời tại vịnh Purvis, và quay về vùng bờ Tây để sửa chữa triệt để. Nó quay trở lại khu vực chiến sự vào [[tháng 8]], được phân công bảo vệ các [[tàu sân bay hộ tống]] tham gia cuộc chiếm đóng [[Palau]] vào [[tháng 9]]. Đi lên phía Bắc để tham gia vào việc tái chiếm [[Philippines]], nó bảo vệ cho hoạt động của các [[Đội phá hoại dưới nước]] (UDT) khi họ chuẩn bị các bãi đổ bộ, rồi hộ tống và bắn pháo hỗ trợ trong chính cuộc đổ bộ diễn ra vào ngày [[20 tháng 10]]. Trong một giai đoạn của trận [[Hải chiến vịnh Leyte]], được biết dưới tên gọi [[Trận chiến eo biển Surigao]] vào đêm [[24 tháng 10|24]]-[[25 tháng 10]], nó hộ tống cho hàng thiết giáp hạm trong cuộc đụng độ vốn đã hầu như tiêu diệt Lực lượng phía Nam của Nhật Bản.
 
Tiếp tục hoạt động tuần tra tại [[vịnh Leyte]] để hỗ trợ lực lượng đổ bộ trên bờ, vào ngày [[1 tháng 11]], ''Claxton'' chịu đựng tổn thất năm người thiệt mạng và 23 người khác bị thương, đồng thời con tàu bị hư hại nghiêm trọng khi một máy bay tấn công cảm tử [[Kamikaze]] đã đâm vào và nổ tung trên mặt nước ngay sát cạnh mạn tàu. Thủy thủ trên tàu đã dùng đệm để bịt một lổ hống {{convert|5|x|9|ft|m|abbr=on}}; sau đó, với các khoang nghỉ ngơi còn bị ngặp nước, nó sửa chữa các hư hỏng của chính mình trong khi cứu giúp 187 người sống sót từ tàu khu trục {{USS|Abner Read|DD-526|3}}, một nạn nhân khác của Kamikaze.
 
Sau khi được sửa chữa tại [[Tacloban]] và [[đảo Manus]], ''Claxton'' quay trở lại hoạt động trong vai trò bắn pháo hỗ trợ, tuần tra và hộ tống trong cuộc đổ bộ lên [[vịnh Lingayen]] từ ngày [[9 tháng 1|9]] đến ngày [[18 tháng 1]], năm [[1945]]. Tiếp tục hoạt động tại Philippines, nó tiến hành bắn phá và bảo vệ cho các cuộc đổ bộ tại nhiều địa điểm ở [[Luzon]] và [[Mindanao]] cũng như tại [[Visaya]] trong suốt đầu [[tháng 5]]. Vào ngày [[16 tháng 5]], nó đi đến ngoài khơi [[Okinawa]] để làm nhiệm vụ cột mốc [[radar]] canh phòng và dẫn đường chiến đấu cho máy bay tiêm kích cho đến khi chiến tranh kết thúc. Vào ngày [[6 tháng 6]], hỏa lức phòng không của nó đã chống trả và đánh đuổi một tốp 12 máy bay đối phương có thể đang tìm cách tấn công tự sát.
 
Sau khi [[Nhật Bản đầu hàng]], ''Claxton'' rời Okinawa vào ngày [[10 tháng 9]], về đến [[Washington, D.C.]] vào ngày [[17 tháng 10]] để tham dự lễ trao tặng danh hiệu [[Đơn vị Tuyên dương Tổng thống (Hoa Kỳ)|Đơn vị Tuyên dương Tổng thống]] diễn ra hai ngày sau đó. Sau khi được đại tu tại [[New York, New York|New York]], nó được xuất biên chế và đưa về lực lượng dự bị tại [[Charleston, South Carolina]] vào ngày [[18 tháng 4]], năm [[1946]].
 
Vào ngày [[15 tháng 12]], năm [[1959]], con tàu được chuyển cho [[Cộng hòa Liên bang Đức]] trong khuôn khổ [[Chương trình Trợ giúp tương hỗ]]. Nó hoạt động cùng Hải quân Đức như là chiếc '''''Zerstörer 4'' (D 178)''', cho đến khi được chuyển cho [[Hải quân Hy Lạp]] vào [[tháng 2]], năm [[1981]], nơi con tàu cuối cùng được tháo dỡ để làm nguồn phụ tùng thay thế.
 
== Phần thưởng ==