Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Văn Đôn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Quân đội Quốc gia Việt Nam: replaced: cả 4 → cả bốn using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Tiểu sử quân nhân
| tên= '''TRẦN VĂN ĐÔN
| hình= [[Hình: Tranvandon.jpg|180px]]
| chú thích hình= '''Trung tướng Trần Văn Đôn
| ngày sinh= '''[[19 tháng 8]] năm [[1917]]
| nơi sinh= [[Bordeaux]], [[Pháp]]
| ngày mất= '''[[1998]] ([[81]] tuổi)
| nơi mất= [[Arkansas]], [[Hoa Kỳ]]
| phục vụ= '''[[Hình: Flag of South Vietnam.svg|40px]] [[Việt Nam Cộng hòa]]
| thuộc= '''[[Hình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|36px]] [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa|Quân đội VNCH]]
| năm phục vụ= '''[[1939]]-[[1965]]
| cấp bậc= '''[[Hình: US-O9 insignia.svg|48px]] [[Trung tướng]]
| đơn vị= '''[[Hình: Tổ quốc - Đại dương.gif|22px]] [[Hải quân Việt Nam Cộng hòa|Quân chủng Hải quân]]<br/>[[Hình: QD I VNCH.jpg|20px]] [[Quân đoàn I (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn I và QK 1]]<br/>[[Hình: ARVN Joint General Staff Insignia.svg|20px]] [[Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Bộ Tổng Tham mưu]]<br/>[[Hình: Flag of the Minister of National Defense of the Republic of Vietnam.svg|20px]] [[Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa|Bộ Quốc phòng]]
| chỉ huy= '''[[Hình: Flag of France.svg|26px]] [[Quân đội Pháp]]<br/>[[Hình: Flag of France.svg|26px]] [[Quân đội Pháp|QĐ Liên hiệp Pháp]]<br/>[[Hình: Flag of the Vietnamese National Army.svg|26px]] [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]]<br/>[[Hình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|26px]] [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa|Quân đội VNCH]]
| tham chiến= '''[[hình: Flag of Colonial Annam.svg|20px]] -[[Chiến tranh Đông Dương]]<br/>[[Hình: Flag of South Vietnam.svg|20px]] -[[Chiến tranh Việt Nam]]
| công việc khác= '''[[Hình: Flag of the Minister of National Defense of the Republic of Vietnam.svg|20px]] [[Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa|Tổng trưởng QP]]<br/>-[[ ]] [[Quốc hội Việt Nam Cộng hòa|Thượng Nghị sĩ]]
}}
 
'''Trần Văn Đôn''' (1917- 1998), nguyên là một cựu tướng lĩnh của [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa]], cấp bậc [[Trung tướng]]. Ông xuất thân từ trường Sĩ quan Trừ bị ở Pháp, sau đó được thụ huấn tiếp ở trường Võ bị của Quân đội thuộc địa Pháp mở ra ở miền Bắc Việt Nam. Ông còn là một cựu chính khách của [[Việt Nam Cộng hòa]]. Là một trong những nhân vật chủ chốt trong cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|Đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963]] lật đổ chính quyền Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]]. Ông cũng là Phó Thủ tướng và Bộ trưởng Quốc phòng của nền [[Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam]] (1967-1975).
 
==Tiểu sử và Binh nghiệp==
==Thân thế==
Ông sinh ngày 19 tháng 8 năm 1917 tại Cauderan, Gironde, [[Bordeaux]], [[Pháp]], nhưng xuất thân từ một gia đình đại địa chủ giàu có ở [[Đồng bằng sông Cửu Long|miền tâyTây Nam phần]]. Cha của ông đã sang Pháp học [[y học|Y khoa]] và sinh ông tại đây. Cả gia đình ông đều theo Quốc tịch Pháp, vì vậy ông còn có tên Pháp là '''"Andre'''".<ref>Gia đình tướng Đôn có 2 Quốc tịch Việt và Pháp. Từ cha của ông đến anh em ông, trai cũng như gái đều có tên là Trần Văn Đôn, chỉ phân biệt ở tên đặt theo Quốc tịch Pháp.</ref>
 
Năm 1920, cha ông hồi hương mang theo cả gia đình. Năm 1923, ông theo học trường Tiểu học Lasan Taberd Sài Gòn. Năm 1925, học trường Lycėe Chaseloup Laubat Sài Gòn.<ref>Về sau đổi tên thành trường Trung học Lê Quý Đôn</ref> Tại đây ông quen biết một học sinh giỏi thể thao tên là [[Dương Văn Minh]]. Năm 1927, ông được gia đình cho sang Pháp du học, đến năm 1929 thì hồi hương về học ở Việt Nam. Năm 1939, ông tốt nghiệp Tú tài toàn phần Pháp (Part II), sau đó tiếp tục sang Pháp theo học Trường Cao đẳng Thương mại Paris, Pháp.
 
Năm 1927, ông được gia đình cho sang Pháp du học, đến năm 1929 thì hồi hương về học ở Việt Nam. Năm 1939, ông tốt nghiệp Tú tài toàn phần Pháp (Part II), sau đó lại sang Pháp theo học Trường Cao đẳng Thương mại Paris, Pháp.
 
==Binh nghiệp==
===Quân đội Pháp===
Tháng 9 năm 1939, [[Chiến tranh thế giới thứ hai]] bùng nổ., Ôngông nhập ngũ vào [[Quân đội Pháp]]. Tháng 5 năm 1940, ông được cử theo học tại trường Sĩ quan Trừ bị Saint Maixent. Tuy nhiên, trong thời gian ông thụ huấn, nước Pháp thất thủ trước [[Đức Quốc xã]]., Ôngông bị bắt làm tù binh tại chiến trường La Loire và bị giam giữ 2 tháng tại trường Thiết giáp Kỵ binh Saumur., Thángtháng 12 năm đó, ông hồi hương bằng đường biển trên tàu thuỷ Ville de Strasbourg.
 
Sau khi về nước, ông tiếp tục phục vụ cho Quân đội Pháp tại Đông Dương, trở thành Huấn luyện viên tân binh cho các binh sĩ người Việt trong Quân đội thuộc địa. Năm 19421940, ông là một trong 2 hạ sĩ quan trẻ người Việt trong số khóa sinh được cử theo học trường Võ bị Tông Sơn Tây,<ref>Trong tổng số 10 sĩ quan người Việt xuất thân từ trường Võ bị Tông Sơn Tây, sau này đều là sĩ quan cao cấp trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa: Cấp Trung tướng: Trần Văn Đôn, [[Thái Quang Hoàng]], [[Linh Quang Viên]], [[Nguyễn Văn Vỹ]], [[Trần Văn Minh (lục quân)|Trần Văn Minh]] và [[Nguyễn Văn Là]]. Cấp Thiếu tướng: [[Nguyễn Văn Vận]] và [[Trần Tử Oai]]. Cấp Đại tá: [[Đạng Đình Đán (Đại tá, Quân lực VNCH)|Đặng Đình Đán]] ''(sinhSinh năm 1918, nguyêntại Hà Nội. Chức vụ sau cùng: Cục trưởng Cục Chính huấn, giải ngũ năm 1968)''[[Hoàng Văn Tỷ ''(sinhĐại tá, Quân lực VNCH)|Hoàng Văn Tỷ]] (Sinh năm 1919, nguyêntại Lạng Sơn. Chức vụ sau cùng: Tổng cục phó Tổng cục Quân huấn, giải ngũ năm 1970).</ref> theo chương trình đào tạo sĩ quan người Việt của Chính quyền thuộc địa Pháp để phục vụ cho Quân đội thuộc địa Pháp <ref>Trần Văn Đôn, ''Việt Nam nhân chứng'', Nhà xuất bản Xuân Thu, California, 1989. tr. 27.</ref>. Một năm sau, ông tốt nghiệp với cấp bậc [[Chuẩn úy]] và được giữ lại trường làm Huấn luyện viên.
 
Năm 1945, khi Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, ông theo đoàn quân của tướng [[Marcel Alessandri]] vượt biên đào thoát sang [[Trung Quốc]]. Vì vậy, khi quân Pháp tái chiếm Đông Dương, ông được thăng cấp [[Thiếu úy]], được phân công phục vụ tại Văn phòng của tướng [[Jacques-Philippe Leclerc]], Tổng tư lệnh Quân Viễn chinh Pháp tại Đông Dương. Giữa tháng 12, ông từng được chọn vào Biệt đội hỗ trợ cho cựu hoàng [[Duy Tân]], nguyên Thiếu tá Quân đội Pháp. Tuy nhiên do cựu hoàng bị tử nạn máy bay vào ngày [[26 tháng 12]] năm 1945 khi trên đường trở về nước, do đó ông được chuyển sang Sở Nghiên cứu Lịch sử Pháp. Đầu tháng 10 năm 1946, ông được thăng cấp [[Trung úy]].
Hàng 48 ⟶ 45:
Cuối năm 1955, sau khi chính thể [[Việt Nam Cộng hòa]] thành lập, ông từ bỏ quốc tịch Pháp và ở lại phục vụ trong [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa]] với chức vụ Tham mưu trưởng Liên quân Bộ Tổng tham mưu kiêm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng. Đầu tháng 2 năm 1957, ông được thăng cấp [[Trung tướng]] tại nhiệm. Cùng thăng Trung tướng đợt này có người bạn cũ [[Dương Văn Minh]]. Ngày 4 tháng 5, ông là Sĩ quan Tuỳ viên tháp tùng Tổng thống Diệm công du Hoa Kỳ 10 ngày (từ 8 đến 18 tháng 5 năm 1957), ngày 20 tháng 5, phái đoàn rời Honolulu trở về Sài Gòn. Ngày 15 tháng 10, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh [[Quân đoàn I (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn I và Vùng 1 Chiến thuật]] thay thế Trung tướng [[Thái Quang Hoàng]]. Năm 1959, ông được cử đi du học khóa Vũ khí cận đại tại Fort Bliss, Tiểu bang Texas, Hoa Kỳ.
 
Tuy nhiên, từ năm 1960 trở đi, mối quan hệ giữa ông và Tổng thống Diệm bắt đầu có những rạn nứt. Ngày 8 tháng 12 năm 1962, ông được điều về lại Bộ Tổng tham mưu giữ chức vụ Tư lệnh Lục quân, trên thực tế là một chức vụ không nắm thực quyền, sau khi bàn giao chức vụ Tư lệnh Quân đoàn I lại cho Thiếu tướng [[Lê Văn Nghiêm]]. Những người quen cũ của ông ngày nào từng ủng hộ Tổng thống Diệm cũng giữ một chức vụ "quyền lực" không kém: tướng [[Dương Văn Minh]], Tư lệnh Hành quân Bộ Tổng tham mưu;, tướng [[Lê Văn Kim]], Phụ tá Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân;, tướng [[Trần Văn Minh (lục quân)|Trần Văn Minh]], Chỉ huy trưởng Trường Đại học Quân sự... Cộng thêm tình thế chính trị và xã hội phức tạp của [[Việt Nam Cộng hòa]] trong [[Biến cố Phật giáo, 1963|Biến cố Phật giáo 1963]], ông dần trở thành một nhân vật quan trọng trong các báo cáo về những ý đồ đảo chính của phân bộ [[CIA]] tại Sài Gòn.<ref>Trần Văn Đôn, ''Việt Nam nhân chứng'' Nhà xuất bản Xuân Thu, California, 1989, tr. 173</ref>
 
===Đảo chính và bị đảo chính===
Hàng 55 ⟶ 52:
Trên thực tế, với vai trò này, ông càng có điều kiện đẩy nhanh kế hoạch đảo chính. Chỉ trong vòng 1 tháng, các chỉ huy và đơn vị trung thành với Tổng thống Diệm đều bị vô hiệu hoặc được điều chuyển ra khỏi Sài Gòn. Và cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|đảo chính]] thực sự nổ ra ngày 1 tháng 11 năm 1963, cũng như cái chết của anh em Tổng thống Diệm một ngày sau đó.
 
Để thay thế vai trò của Tổng thống Diệm, một [[Hội đồng Quân nhân Cách mạng (Việt Nam Cộng hòa)|Hội đồng Quân nhân Cách mạng]] được thành lập. Ông được giữ vị trí thứ 2 trong Hội đồng với vai trò Đệ nhất Phó chủ tịch, chỉ sau tướng [[Dương Văn Minh]]. Cùng thời điểm, ông được làm Tổng trưởng Quốc phòng trong Nội các Chính phủ Thủ tướng [[Nguyễn Ngọc Thơ]]. Đến đầu tháng 1 năm 1964, ông được kiêm luôn chức vụ Tổng Tư lệnh Quân đội Việt Nam Cộng hòa (Tổng Tham mưu trưởng), nhưng chỉ sang ngày hôm sau, ông bàn giao chức vụ này lại cho người em rể là Thiếu tướng [[Lê Văn Kim]]. Đến ngày 14 tháng 1, ông được cử làm Trưởng đoàn hướng dẫn phái đoàn Quân sự công du Thái Lan trong thời gian 2 ngày.<ref>Trong phái đoàn quân sự công du Thái Lan ngày 14 tháng 1 năm 1964 còn có các sĩ quan cao cấp: Trung tướng [[Tôn Thất Đính]] ''(Tổng trưởng An ninh)'' và các Đại tá [[Nguyễn Cao Kỳ]] ''(Tư lệnh Không quân)'', [[Chung Tấn Cang]] ''(Tư lệnh Hải quân)'', [[Nguyễn Văn Chuân]] ''(Giám đốc Nha Chiến tranh Chính trị).</ref>
 
Tuy nhiên, danh vọng tột đỉnh của ông chỉ tồn tại chưa đầy 3 tháng. Ngày 30 tháng 1 năm 1964, một người bạn cũ của ông, tướng [[Nguyễn Khánh]], đã thực hiện cuộc "[[Cuộc chỉnh lý tại Việt Nam Cộng hòa 1964|Chỉnh lý]]" lên nắm chức vụ Chủ tịch Hội đồng. Ông cùng các một số tướng lĩnh chủ chốt trong Hội đồng gồm [[Tôn Thất Đính]], [[Lê Văn Kim]], [[Mai Hữu Xuân]], đều bị bắt giam và đưa lên [[Đà Lạt]] chờ điều tra với tội danh tình nghi “trung lập”. Cả Thiếu tướng [[Nguyễn Văn Vỹ]] (mới trở về sau một thời gian sống lưu vong ở Pháp) cũng bị bắt giam tại Đà Lạt cùng với các tướng Đôn, Đính, Kim, Xuân.
 
Ông kể lại trong hồi ký như sau khi được đưa ra đối chất trước Hội đồng vào lúc 1 giờ sáng ngày [[29 tháng 5]] năm 1964:
:''“Bước vào thật là buồn rầu, bỡ ngỡ. Trước mặt tôi là các tướng: Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, [[Đỗ Cao Trí]], [[Phạm Xuân Chiểu]], [[Dương Văn Đức]], [[Lâm Văn Phát]], [[Đỗ Mậu (Việt Nam Cộng Hòa)|Đỗ Mậu]], [[Tôn Thất Xứng]], [[Nguyễn Chánh Thi]], [[Dương Ngọc Lắm]], [[Trần Tử Oai]], [[Lê Văn Nghiêm]], [[Nguyễn Cao Kỳ]] (đến buổi sáng sau). [[Chung Tấn Cang]], các đạiĐại tá: [[Trần Thanh Bền (Đại tá, Quân lực VNCH)|Trần Thanh Bền]]<ref>Cựu Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia</ref>, [[Nguyễn Mộng Bích (Đại tá, Quân lực VNCH)|Nguyễn Mộng Bích]]<ref>Cựu Giám đốc Nha Quân pháp</ref>, [[Lê Văn Nhiêu (Đại tá, Quân lực VNCH)|Lê Văn Nhiêu]]<ref>Cựu Uỷ viên trong Phủ Đặc Tình báo Trung ương</ref>. Tôi ngồi ở giữa, họ ngồi chung quanh…”.''
 
Nhưng dù sao thì ông cũng được trả tự do. ''“Tôi ngủ một đêm tự do sau 4 tháng “đi nghỉ mát” ở biển và cao nguyên. Qua ngày chủ nhật [[31 tháng 5]], tất cả gia đình tôi đoàn tụ ở Đà Lạt sau 4 tháng đen tối nhất của đời tôi”.'' <ref>[http://www.quangngai.gov.vn/cat/Pages/qnp-dochoikycuacactuong-qnpnd-9651-qnpnc-10-qnpsite-1.html Đọc hồi ký của các tướng tá Sài Gòn xuất bản ở nước ngoài]</ref>
Hàng 89 ⟶ 86:
 
==Gia đình==
* Thân phụ: Bác sĩ Trần Văn Đôn (SN:Sinh năm 1887), tốt nghiệp tại Đại học Y khoa Bordeaux (Pháp), một trong những đồng sáng lập của [[Đảng Dân chủ Đông Dương]], nguyên Hội trưởng Hội Khuyến học Sài Gòn, Đô trưởng Sài Gòn-Chợ Lớn, Đại sứ Quốc gia Việt Nam tại Ý (1951).
: *Thân mẫu từ trần năm 1930.
* Bào muội: Gabrielle Antoinette Trần Văn Đôn (sau cải danh theo Quốc tịch Việt Nam là Trần Thị Thu Hương), phu nhân của Trung tướng [[Lê Văn Kim]],.
*Bào nguyênđệ: TổngClaude ThamTrần mưuVăn trưởngĐôn, nguyênbác Phụ tại Tổng Tư lệnh Quân đội Việt Nam CộngParis, hòaPháp.
* Phu nhân: Quê ở Chợ Lớn, ái nữ của cụ Bá hộ Xường, người thứ 2 trong 4 người giàu có nhất thời bấy giờ ở miền Nam Kỳ Lục tỉnh. Được nhân gian truyền tụng qua câu: Nhất Sĩ, Nhì Xường, Tam Phương, Tứ Hỏa.<ref>Tứ Đại gia vùng Sài Gòn-Chợ Lớn vào cuối Thế kỷ 19:<br/>-'''Nhất Sĩ''', còn gọi là Ông Huyện Sĩ ''(tức Cụ [[Huyện Sĩ|Philippe Lê Phát Đạt]], ông ngoại của Nam Phương Hoàng hậu)''<br>-'''Nhì Xường''', còn gọi là ông Bá hộ Xường ''(tức cụ Lý Thành Nguyên, tên thật là [[Bá hộ Xường|Lý Tường Quan]], quê ở Chợ Lớn)''<br/>-'''Tam Phương''', còn gọi là ông Tổng đốc Phương ''(tức cụ [[Tổng đốc Phương|Đỗ Hữu Phương]], Tổng đốc Chợ Lớn)''<br/>-'''Tứ Hoả''' còn có tên La tinh là Jean Baptiste Hui Bon Hoa ''(tên chữ Việt là [[Chú HỏaHoả|Huỳnh Văn Hoa]], một thương gia nổi tiếng giàu có ở Chợ Lớn).</ref>
* Bào đệ: Claude Trần Văn Đôn, bác sĩ tại Paris, Pháp.
: - Đời tư của tướng '''Đôn''' nổi tiếng có nhiều giai thoại tình ái. Nhiều phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu thời bấy giờ là tình nhân của ông, thậm chí có nghi vấn Đệ nhất phu nhân [[Trần Lệ Xuân]] cũng nằm trong số này.
* Phu nhân: Quê ở Chợ Lớn, ái nữ của cụ Bá hộ Xường, người thứ 2 trong 4 người giàu có nhất thời bấy giờ ở miền Nam Kỳ Lục tỉnh. Được nhân gian truyền tụng qua câu: Nhất Sĩ, Nhì Xường, Tam Phương, Tứ Hỏa.<ref>Tứ Đại gia vùng Sài Gòn-Chợ Lớn vào cuối Thế kỷ 19:<br/>-'''Nhất Sĩ''', còn gọi là Ông Huyện Sĩ ''(tức Cụ [[Huyện Sĩ|Philippe Lê Phát Đạt]], ông ngoại của Nam Phương Hoàng hậu)''<br>-'''Nhì Xường''', còn gọi là ông Bá hộ Xường ''(tức cụ Lý Thành Nguyên, tên thật là [[Bá hộ Xường|Lý Tường Quan]], quê ở Chợ Lớn)''<br/>-'''Tam Phương''', còn gọi là ông Tổng đốc Phương ''(tức cụ [[Tổng đốc Phương|Đỗ Hữu Phương]], Tổng đốc Chợ Lớn)''<br/>-'''Tứ Hoả''' còn có tên La tinh là Jean Baptiste Hui Bon Hoa ''(tên chữ Việt là [[Chú Hỏa|Huỳnh Văn Hoa]], một thương gia nổi tiếng giàu có ở Chợ Lớn).</ref>
: - Đời tư của tướng '''Đôn''' nổi tiếng có nhiều giai thoại tình ái. Nhiều phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu thời bấy giờ là tình nhân của ông, thậm chí có nghi vấn Đệ nhất phu nhân [[Trần Lệ Xuân]] cũng nằm trong số này.
 
==Tác phẩm==
- Việt Nam Nhân chứng (1989)
 
==Chú thích==