Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Văn Đôn”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Quân đội Quốc gia Việt Nam: replaced: cả 4 → cả bốn using AWB |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 1:
{{Tiểu sử quân nhân
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
}}
'''Trần Văn Đôn''' (1917- 1998), nguyên là một cựu tướng lĩnh của [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa]], cấp bậc [[Trung tướng]]. Ông xuất thân từ trường Sĩ quan Trừ bị ở Pháp, sau đó được thụ huấn tiếp ở trường Võ bị của Quân đội thuộc địa Pháp mở ra ở miền Bắc Việt Nam. Ông còn là một cựu chính khách của [[Việt Nam Cộng hòa]]. Là một trong những nhân vật chủ chốt trong cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|Đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963]] lật đổ chính quyền Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]]. Ông cũng là Phó Thủ tướng và Bộ trưởng Quốc phòng của nền [[Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam]] (1967-1975).
Ông sinh ngày 19 tháng 8 năm 1917 tại Cauderan, Gironde, [[Bordeaux]], [[Pháp]], nhưng xuất thân từ một gia đình đại địa chủ giàu có ở [[Đồng bằng sông Cửu Long|miền
Năm 1920, cha ông hồi hương mang theo cả gia đình. Năm 1923, ông theo học trường Tiểu học Lasan Taberd Sài Gòn. Năm 1925, học trường Lycėe Chaseloup Laubat Sài Gòn.<ref>Về sau đổi tên thành trường Trung học Lê Quý Đôn</ref> Tại đây ông quen biết một học sinh giỏi thể thao tên là [[Dương Văn Minh]]. Năm 1927, ông được gia đình cho sang Pháp du học, đến năm 1929 thì hồi hương về học ở Việt Nam. Năm 1939, ông tốt nghiệp Tú tài toàn phần Pháp (Part II), sau đó tiếp tục sang Pháp theo học Trường Cao đẳng Thương mại Paris, Pháp.
▲==Binh nghiệp==
===Quân đội Pháp===
Tháng 9 năm 1939, [[Chiến tranh thế giới thứ hai]] bùng nổ
Sau khi về nước, ông tiếp tục phục vụ cho Quân đội Pháp tại Đông Dương, trở thành Huấn luyện viên tân binh cho các binh sĩ người Việt trong Quân đội thuộc địa. Năm
Năm 1945, khi Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, ông theo đoàn quân của tướng [[Marcel Alessandri]] vượt biên đào thoát sang [[Trung Quốc]]. Vì vậy, khi quân Pháp tái chiếm Đông Dương, ông được thăng cấp [[Thiếu úy]], được phân công phục vụ tại Văn phòng của tướng [[Jacques-Philippe Leclerc]], Tổng tư lệnh Quân Viễn chinh Pháp tại Đông Dương. Giữa tháng 12, ông từng được chọn vào Biệt đội hỗ trợ cho cựu hoàng [[Duy Tân]], nguyên Thiếu tá Quân đội Pháp. Tuy nhiên do cựu hoàng bị tử nạn máy bay vào ngày [[26 tháng 12]] năm 1945 khi trên đường trở về nước, do đó ông được chuyển sang Sở Nghiên cứu Lịch sử Pháp. Đầu tháng 10 năm 1946, ông được thăng cấp [[Trung úy]].
Hàng 48 ⟶ 45:
Cuối năm 1955, sau khi chính thể [[Việt Nam Cộng hòa]] thành lập, ông từ bỏ quốc tịch Pháp và ở lại phục vụ trong [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa]] với chức vụ Tham mưu trưởng Liên quân Bộ Tổng tham mưu kiêm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng. Đầu tháng 2 năm 1957, ông được thăng cấp [[Trung tướng]] tại nhiệm. Cùng thăng Trung tướng đợt này có người bạn cũ [[Dương Văn Minh]]. Ngày 4 tháng 5, ông là Sĩ quan Tuỳ viên tháp tùng Tổng thống Diệm công du Hoa Kỳ 10 ngày (từ 8 đến 18 tháng 5 năm 1957), ngày 20 tháng 5, phái đoàn rời Honolulu trở về Sài Gòn. Ngày 15 tháng 10, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh [[Quân đoàn I (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn I và Vùng 1 Chiến thuật]] thay thế Trung tướng [[Thái Quang Hoàng]]. Năm 1959, ông được cử đi du học khóa Vũ khí cận đại tại Fort Bliss, Tiểu bang Texas, Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, từ năm 1960 trở đi, mối quan hệ giữa ông và Tổng thống Diệm bắt đầu có những rạn nứt. Ngày 8 tháng 12 năm 1962, ông được điều về lại Bộ Tổng tham mưu giữ chức vụ Tư lệnh Lục quân, trên thực tế là một chức vụ không nắm thực quyền, sau khi bàn giao chức vụ Tư lệnh Quân đoàn I lại cho Thiếu tướng [[Lê Văn Nghiêm]]. Những người quen cũ của ông ngày nào từng ủng hộ Tổng thống Diệm cũng giữ một chức vụ "quyền lực" không kém: tướng [[Dương Văn Minh]], Tư lệnh Hành quân Bộ Tổng tham mưu
===Đảo chính và bị đảo chính===
Hàng 55 ⟶ 52:
Trên thực tế, với vai trò này, ông càng có điều kiện đẩy nhanh kế hoạch đảo chính. Chỉ trong vòng 1 tháng, các chỉ huy và đơn vị trung thành với Tổng thống Diệm đều bị vô hiệu hoặc được điều chuyển ra khỏi Sài Gòn. Và cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|đảo chính]] thực sự nổ ra ngày 1 tháng 11 năm 1963, cũng như cái chết của anh em Tổng thống Diệm một ngày sau đó.
Để thay thế vai trò của Tổng thống Diệm, một [[Hội đồng Quân nhân Cách mạng (Việt Nam Cộng hòa)|Hội đồng Quân nhân Cách mạng]] được thành lập. Ông được giữ vị trí thứ 2 trong Hội đồng với vai trò Đệ nhất Phó chủ tịch, chỉ sau tướng [[Dương Văn Minh]]. Cùng thời điểm, ông được làm Tổng trưởng Quốc phòng trong Nội các Chính phủ Thủ tướng [[Nguyễn Ngọc Thơ]]. Đến đầu tháng 1 năm 1964, ông được kiêm luôn chức vụ Tổng Tư lệnh Quân đội Việt Nam Cộng hòa (Tổng Tham mưu trưởng), nhưng chỉ sang ngày hôm sau, ông bàn giao chức vụ này lại cho người em rể là Thiếu tướng [[Lê Văn Kim]]. Đến ngày 14 tháng 1, ông được cử làm Trưởng đoàn hướng dẫn phái đoàn Quân sự công du Thái Lan trong thời gian 2 ngày.<ref>Trong phái đoàn quân sự công du Thái Lan ngày 14 tháng 1 năm 1964 còn có các sĩ quan cao cấp: Trung tướng [[Tôn Thất Đính]]
Tuy nhiên, danh vọng tột đỉnh của ông chỉ tồn tại chưa đầy 3 tháng. Ngày 30 tháng 1 năm 1964, một người bạn cũ của ông, tướng [[Nguyễn Khánh]], đã thực hiện cuộc "[[Cuộc chỉnh lý tại Việt Nam Cộng hòa 1964|Chỉnh lý]]" lên nắm chức vụ Chủ tịch Hội đồng. Ông cùng các một số tướng lĩnh chủ chốt trong Hội đồng gồm [[Tôn Thất Đính]], [[Lê Văn Kim]], [[Mai Hữu Xuân]], đều bị bắt giam và đưa lên [[Đà Lạt]] chờ điều tra với tội danh tình nghi “trung lập”. Cả Thiếu tướng [[Nguyễn Văn Vỹ]] (mới trở về sau một thời gian sống lưu vong ở Pháp) cũng bị bắt giam tại Đà Lạt cùng với các tướng Đôn, Đính, Kim, Xuân.
Ông kể lại trong hồi ký như sau khi được đưa ra đối chất trước Hội đồng vào lúc 1 giờ sáng ngày [[29 tháng 5]] năm 1964:
:''“Bước vào thật là buồn rầu, bỡ ngỡ. Trước mặt tôi là các tướng
Nhưng dù sao thì ông cũng được trả tự do. ''“Tôi ngủ một đêm tự do sau 4 tháng “đi nghỉ mát” ở biển và cao nguyên. Qua ngày chủ nhật [[31 tháng 5]], tất cả gia đình tôi đoàn tụ ở Đà Lạt sau 4 tháng đen tối nhất của đời tôi”.'' <ref>[http://www.quangngai.gov.vn/cat/Pages/qnp-dochoikycuacactuong-qnpnd-9651-qnpnc-10-qnpsite-1.html Đọc hồi ký của các tướng tá Sài Gòn xuất bản ở nước ngoài]</ref>
Hàng 89 ⟶ 86:
==Gia đình==
*
*
*Bào *
:
▲* Phu nhân: Quê ở Chợ Lớn, ái nữ của cụ Bá hộ Xường, người thứ 2 trong 4 người giàu có nhất thời bấy giờ ở miền Nam Kỳ Lục tỉnh. Được nhân gian truyền tụng qua câu: Nhất Sĩ, Nhì Xường, Tam Phương, Tứ Hỏa.<ref>Tứ Đại gia vùng Sài Gòn-Chợ Lớn vào cuối Thế kỷ 19:<br/>-'''Nhất Sĩ''', còn gọi là Ông Huyện Sĩ ''(tức Cụ [[Huyện Sĩ|Philippe Lê Phát Đạt]], ông ngoại của Nam Phương Hoàng hậu)''<br>-'''Nhì Xường''', còn gọi là ông Bá hộ Xường ''(tức cụ Lý Thành Nguyên, tên thật là [[Bá hộ Xường|Lý Tường Quan]], quê ở Chợ Lớn)''<br/>-'''Tam Phương''', còn gọi là ông Tổng đốc Phương ''(tức cụ [[Tổng đốc Phương|Đỗ Hữu Phương]], Tổng đốc Chợ Lớn)''<br/>-'''Tứ Hoả''' còn có tên La tinh là Jean Baptiste Hui Bon Hoa ''(tên chữ Việt là [[Chú Hỏa|Huỳnh Văn Hoa]], một thương gia nổi tiếng giàu có ở Chợ Lớn).</ref>
▲: - Đời tư của tướng '''Đôn''' nổi tiếng có nhiều giai thoại tình ái. Nhiều phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu thời bấy giờ là tình nhân của ông, thậm chí có nghi vấn Đệ nhất phu nhân [[Trần Lệ Xuân]] cũng nằm trong số này.
==Tác phẩm==
-
==Chú thích==
|