Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thuấn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: sửa chính tả 3, replaced: 1 trong → một trong using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 5:
| thêm = china
| hình = 帝舜.png
| ghi chú hình = Vua Thuấn, tranh tường thời [[nhà Hán]]
| chức vị = [[Tam Hoàng Ngũ Đế|Ngũ Đế]]
| tại vị = 50 năm (truyền thuyết)
| kiểu tại vị = Trị vì
| tiền nhiệm = <font color="grey">[[Nghiêu|Đế Nghiêu]]</font>
Dòng 30:
[[Đạo giáo]] trung nhận Thuấn là '''Địa Quan Đại Đế''' (地官大帝), Đế [[Nghiêu]] là '''Thiên Quan Đại Đế''' (天官大帝), còn [[Hạ Vũ]] là '''Thủy Quan Đại Đế''' (水官大帝). Ngày sinh của Địa Quan là [[tiết Trung Nguyên]].
 
== PhòTường tá Đế Nghiêutrình ==
=== Phò tá Đế Nghiêu ===
[[Tập tin:EmperorShun.jpg|thumb|trái|250px|Hình vẽ Đế Thuấn thời [[nhà Hán]]]]
Nguyên tên Đế Thuấn là '''Trọng Hoa''' (重華), người bộ lạc [[Hữu Ngu]] (有虞). Do ông được sinh ra ở [[Diêu Khư]] (姚墟), nên về sau lấy '''Diêu''' (姚) làm [[họ]]. Theo [[truyền thuyết]], mẹ ông [[Ốc Đăng]] (握登) là người rất hiền đức mất sớm, cha là [[Cổ Tẩu]] (瞽叟) lấy vợ khác và sinh ra [[Tượng (nhân vật truyền thuyết)|Tượng]] (象)và một cô con gái khác. Dù bị mẹ con Tượng và cả Cổ Tẩu đối xử không tốt, Thuấn vẫn một mực hiếu thuận, giữ đúng đạo làm con.
 
Danh tiếng Trọng Hoa được người trong bộ lạc nể phục nên khi trưởng thành, ông được bầu làm thủ lĩnh bộ lạc. Ông đem bộ lạc quy phục [[Nghiêu|Đế Nghiêu]] và được Đế Nghiêu gả cho hai người con gái là [[Nga Hoàng (vợ cả đế Thuấn)|Nga Hoàng]] và [[Nữ Anh]], đồng thời tặng cho lương thực và rất nhiều bò dê gia súc. Bộ lạc Hữu Ngu dưới sự lãnh đạo của ông ngày càng hùng mạnh, trở thành một trong những trụ cột chính trong liên minh các bộ lạc dưới quyền quân chủ của Đế Nghiêu.
 
Trong thời kì phục vụ Đế Nghiêu, Thuấn rất được tin cẩn và được [[Tứ nhạc]] (四岳) tiến cử. Ấn tượng bởi tài năng của Thuấn, Đế Nghiêu quyết định truyền ngôi lại cho Thuấn bất chấp lời can ngăn, vì Nghiêu có một người con trai đã đến tuổi trưởng thành là [[Đan Chu]].
Bộ lạc Hữu Ngu dưới sự lãnh đạo của ông ngày càng hùng mạnh, trở thành một trong những trụ cột chính trong liên minh các bộ lạc dưới quyền quân chủ của Đế Nghiêu.
 
=== Được Nghiêu truyền ngôi ===
Khi Đế Nghiêu già yếu, Thuấn được Đế Nghiêu nhường ngôi vị quân chủ của liên minh các bộ lạc. Ông đặt [[thủ đô]] của liên minh tại [[Bồ Phản]] (蒲阪), [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]] hiện nay). Từ đó, ông thường được gọi là '''Đại Thuấn''' (大舜) hay '''Ngu Thuấn''' (虞舜).
 
Việc Đế Nghiêu chọn Thuấn nhường ngôi chứ không nhường ngôi cho con mình là [[Đan Chu]] thường được sử sách đời sau coi là tấm gương mẫu mực của việc chọn người tài đức chứ không vì lợi ích riêng tư của dòng họ. Tuy nhiên có ý kiến căn cứ vào ''[[Trúc thư kỉ niên]]'', cuốn biên niên sử [[ngụy (nước)|nước Ngụy]] thời [[Chiến Quốc]] cho rằng: "''Thuấn giam Nghiêu ở Bình Dương rồi cướp lấy ngôi vua. Thuấn giam Nghiêu và không cho Đan Chu gặp cha''"<ref>Kỳ Ngạn Thần, sách đã dẫn, tr 51-52</ref>.
 
Sau khi lên ngôi, Thuấn làm lễ tế cảm tạ [[Thượng đế]] và các vị thần núi. Ông dùng nhiều thời gian để đi vi hành khắp các ngọn núi thiêng trong thiên hạ để làm lễ khấn vái trời đất. Sau đó, ông chia lãnh thổ ra làm 12 vùng, dựa theo 12 ngọn đồi và lưu vực sông để xây dựng đền thờ một cách quy mô<ref name="Shun 5">Canon of Shun, v 5.</ref>.
Tuy nhiên có ý kiến căn cứ vào ''[[Trúc thư kỉ niên]]'', cuốn biên niên sử [[ngụy (nước)|nước Ngụy]] thời [[Chiến Quốc]] cho rằng:
:"''Thuấn giam Nghiêu ở Bình Dương rồi cướp lấy ngôi vua''"
:"''Thuấn giam Nghiêu và không cho Đan Chu gặp cha''"<ref>Kỳ Ngạn Thần, sách đã dẫn, tr 51-52</ref>.
 
=== Truyền ngôi cho Đại Vũ ===
Thời cổ đại, trị thuỷ để ổn định cuộc sống, phát triển việc cày cấy là việc cấp bách hàng đầu. Theo sử sách, Thuấn sai [[Cổn]] làm việc trị thuỷ. Cổn trị thuỷ không thành công nên bị Thuấn xử tội chết. Thuấn lại dùng con Cổn là [[Hạ Vũ|Vũ]] trị thuỷ. Sau nhiều năm, Vũ trị thuỷ thành công, vì thế được Thuấn rất tin cẩn Vũ.
 
SauVề nhiều nămsau, Vũ trị thuỷ thành công, vì thế được Thuấn chọnquyết làmđịnh ngườitruyền kếngôi vị.cho Thuấn khôngthay truyền ngôicon cho contrai mình là [[Thương Quân (con Thuấn)|Thương Quân]]. mà trao ngôi báu cho Vũ, vềVề sau Vũ lập ra [[nhà Hạ]].
 
== Hiếu cảm động thiên ==
[[Tập tin:EmperorShun.jpg|thumb|tráiphải|250px200px|Hình vẽ Đế Thuấn thời [[nhà Hán]].]]
Truyền thuyết kể rằng, mẹ Thuấn là [[Ốc Đăng]] qua đời sớm khi Thuấn còn nhỏ, cha ông lấy vợ khác và sinh ra [[Tượng (nhân vật truyền thuyết)|Tượng]]. Mẹ kế của ông luôn gây phiền phức cho ông và chỉ cho ông ăn cơm hẩm, mặc áo rách tệ bạc. Cha của ông luôn không mảy may quan tâm tình trạng của ông, còn nhẫn tâm đổ tội và làm khó ông trong mọi hoàn cảnh. Dù bị mẹ con Tượng và cả Cổ Tẩu đối xử không tốt, Thuấn vẫn một mực hiếu thuận, giữ đúng đạo làm con.
 
Khi Thuấn gần đến tuổi trưởng thành, mẹ kế đuổi ông ra khỏi nhà, và khiến ông phải tự thân sống một mình. Do sự thương xót của mọi người và tài anng8 lãnh đạo xuất chúng, Thuấn hễ đi đến đâu cũng đều thu phục được người. Khi ông đến một xưởng [[gốm]], ông chỉ dạy họ và xưởng gốm làm ăn ngày càng phát đạt. Khi ông đi qua một làng nghề chài lưới, ngôi làng đã có thể có phương thức đánh bắt cá hiệu quả và dần trở nên sung túc.
 
Về già, [[Nghiêu]] thấy các người con của mình chỉ biết hưởng lạc và sa vào tửu sắc. Ông hỏi ý kiến của [[Tứ Nhạc]], và họ đã đề nghị là Thuấn. Tuy có ấn tượng về Thuấn, nhưng Nghiêu không vội tin cẩn, ông thử thách Vũ bằng việc cưới cả 2 người con gái cho Thuấn và chỉ đưa 1 số hồi môn rất nhỏ, và trao cho Vũ một vùng đất để quản lý. Vốn tính cần kiệm và tài năng, Thuấn ngày càng phát đạt và khuếch trương được thế lực của mình, điều này làm Nghiêu rất hài lòng.
 
Khi ấy, mẹ kế và em kế của Thuấn rất ganh ghét và muốn giết Thuấn. Một lần, Tượng đốt kho thóc và lừa Thuấn lên nóc nhà để dập lửa, sau Tượng lấy cái thang đi và để Thuấn mắc kẹt trong đám cháy. Thế nhưng Thuấn dễ dàng thoát ra được. Một lần khác, hai mẹ con Tượng âm mưu chuốc rượu Thuấn say để ném Thuấn vào giếng, họ sẽ lắp đá và đất lại khiến Thuấn chết. Em gái của Tượng, vốn không hề ưng việc làm của mẹ và anh, đã nói với 2 người vợ của Thuấn, vì thế Thuấn đã có chuẩn bị trước. Dẫu vậy, chưa một lần nào Thuấn tố cáo hai mẹ con họ cả. Về sau, hai mẹ con họ ăn năn sai lầm của mình, và Thuấn sẵng sàng giúp Tượng có một chức quan trong triều đình.
 
Câu chuyện này của Thuấn được truyền tụng lâu đời, được gọi là '''Hiếu cảm động thiên''' (孝感动天; ''lòng hiếu thấu cảm đến trời'') trong [[Nhị thập tứ hiếu]].
 
== Trong văn học Việt Nam ==
Hàng 57 ⟶ 67:
 
Trong vở kịch thơ ''Kiều Loan'', [[Hoàng Cầm (nhà thơ)|Hoàng Cầm]] dùng hai chữ "Nghiêu Thuấn" để chỉ cách cai trị nhân từ và công bằng. Khi quan Thị lang muốn trừng trị một người dân vì có nói lời chỉ trích triều đình vua [[Gia Long]], viên quan Tham tri can:
 
:''Xin đại nhân chớ vội vàng lên án
:''Cửa miệng dân gian không thiếu những điều
Hàng 65 ⟶ 74:
:''Chúa thượng nhân từ sao oán hận không nguôi?
 
Điển cố này cũng ảnh hưởng khía cạnh khác của đời sống người Việt Nam, kể cả tôn giáo. Bài ''"Kệ U Minh Chung"'' của đạo [[Cao Đài]] có câu: ''"Nam mẫu Đông giao cu triêm [[Nghiêu Thuấn]] chi nhựt"'' (Đất đai trong nước đều thấm nhuần thời thái bình an lạc).
 
Một điển cố khác liên quan đến Thuấn là [[sông Tương]]. Theo truyền thuyết, vua Thuấn đi tuần thú đất Thương Ngô ở miền sông Tương không may bị bệnh chết. Hai người vợ là [[Nga Hoàng (vợ cả đế Thuấn)|Nga Hoàng]] và [[Nữ Anh]] (con [[nghiêu|vua Nghiêu]]) đi tìm vua đến bên sông Tương, ngồi bên bờ sông khóc lóc thảm thiết rồi trầm mình tự tử. Do đó, ''giọt Tương'' hay ''mạch Tương'' thành điển cố chỉ giọt nước mắt, nhất là nếu khóc vì tình.
:''Nam mẫu Đông giao cu triêm [[Nghiêu Thuấn]] chi nhựt.
 
Trong [[truyện Kiều]] có câu: ''"Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương"''.
Dịch nghĩa: Đất đai trong nước đều thấm nhuần thời thái bình an lạc.
 
Điển cố này cũng dùng cho phái nam, như trong câu sau, cũng trích truyện Kiều: ''"Giọt châu lã chã khôn cầm, Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương!"''
Một điển cố khác liên quan đến vua Thuấn là [[sông Tương]].
 
Từ biểu tượng "khóc vì tình", điển này có khi nới rộng ra để nói về việc buồn (dù có thể không khóc) vì tình, như câu sau trong [[Bích câu kỳ ngộ]]: ''"Ỏi tai những tiếng đoạn trường, Lửa tình dễ nguội sóng Tương khôn hàn"''.
Theo truyền thuyết, vua Thuấn đi tuần thú đất Thương Ngô ở miền sông Tương không may bị bệnh chết. Hai người vợ là [[Nga Hoàng (vợ cả đế Thuấn)|Nga Hoàng]] và [[Nữ Anh]] (con [[nghiêu|vua Nghiêu]]) đi tìm vua đến bên sông Tương, ngồi bên bờ sông khóc lóc thảm thiết rồi trầm mình tự tử. Do đó, ''giọt Tương'' hay ''mạch Tương'' thành điển cố chỉ giọt nước mắt, nhất là nếu khóc vì tình.
 
Trong [[truyện Kiều]] có câu:
 
:''Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương
(Kiều khóc)
 
Điển cố này cũng dùng cho phái nam, như trong câu sau, cũng trích truyện Kiều:
:''Giọt châu lã chã khôn cầm
:''Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương!
(Thúc Sinh khóc)
 
Từ biểu tượng "khóc vì tình", điển này có khi nới rộng ra để nói về việc buồn (dù có thể không khóc) vì tình, như câu sau trong [[Bích câu kỳ ngộ]]:
 
:''Ỏi tai những tiếng đoạn trường''
:''Lửa tình dễ nguội sóng Tương khôn hàn''
(Tú Uyên tương tư)
 
== Xem thêm ==
Hàng 101 ⟶ 94:
* Trình Doãn Thắng, Ngô Trâu Cương, Thái Thành (1998), ''Cố sự Quỳnh Lâm'', Nhà xuất bản Thanh Hoá
* Kỳ Ngạn Thần (2007), ''Người Trung Quốc và những hiểu lầm về lịch sử'', Nhà xuất bản Công an nhân dân
 
== Chú thích ==
{{Tham khảo}}
 
== Liên kết ngoài ==
* [http://www.silkqin.com/09hist/qínhi.shun.htm Đế Thuấn]