Khác biệt giữa bản sửa đổi của “AIDC F-CK-1 Ching-kuo”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 20:
}}
 
'''AIDC F-CK-1 ''Ching-kuo''''' (Ching-kuo''經國號戰機'' - ''Kinh Quốc) (經國號戰機hiệu chiến cơ'') là một [[máy bay tiêm kích]] hạng nhẹ của [[Không quân Trung Hoa Dân Quốc]], nó mang tên của [[Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc]] là [[Tưởng Kinh Quốc]]. Nó bắt đầu hoạt động chính thức vào năm [[1994]], đã có 131 chiếc máy bay được sản xuất tính đến năm [[1999]].
 
Mặc dù tên gọi và thông thường được biết đến là '''Indigenous Defence Fighter''' (IDF - Máy bay tiêm kích Phòng thủ Nội địa), dự án là một nỗ lực chung giữa các công ty quốc phòng của [[Đài Loan]] và [[Hoa Kỳ]], công đoạn lắp ráp cuối cùng được thực hiện bởi [[Aerospace Industrial Development Corporation]] (AIDC) (có cơ sở tại [[Đài Trung]], [[Đài Loan]]). Chương trình IDF được bắt đầu khi việc thu mua những máy bay [[F-20 Tigershark]] của Hoa Kỳ gặp những vấn đề về chính trị.
 
==Phát triển==
Những tìm kiếm ban đầu về một loại máy bay mới thay thế cho những chiếc [[Northrop F-5|F-5]] và [[F-104 Starfighter|F-104]] của [[Đài Loan]] bắt đầu với dự án máy bay tiêm kích nội địa có tên gọi [[XF-6]], sau đó đổi tên thành Ưng Dương (''Ying Yang鷹揚'') vào cuối thập niên 1970. Sau khi Mỹ thiết lập những quan hệ chính thức với [[Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]] và kết thúc Hiệp ước Phòng thủ chung với Đài Loan, Tổng thống [[Tưởng Kinh Quốc]] đã quyết định mở rộng công nghiệp quốc phòng nội địa vào [[28 tháng 8]]-[[1980]], và đã ra lệnh cho [[Aerospace Industrial Development Corporation|AIDC]] thiết kế một [[máy bay tiêm kích đánh chặn]] tốc độ cao nội địa. Ban đầu không quân Đài Loan (ROCAF) liệt kê dự án XF-6 đứng sau chương trình máy bay cường kích [[XA-3]] ''Lei Ming'', do họ tin tồn tại những nguy cơ mạo hiểm cao đối với dự án XF-6.<ref>{{cite book | author = Hua Hsi-Chun | title = Fighter's Sky | publisher = Commonwealth publishing | year = 1999 | language = Chinese}}</ref>
 
Việc ký thông cáo chung Hoa Kỳ-Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm [[1982]], đã giới hạn việc mua bán vũ khí của Mỹ đối với Đài Loan, có khả năng kết thúc việc Đài Loan mua được những chiếc [[F-16 Fighting Falcon|F-16]] hoặc F-20, do đó bảo việc tiếp tục dự án máy bay tiêm kích nội địa của Đài Loan. Mặc dù tổng thống Mỹ [[Ronald Reagan]] miễn cưỡng chấp nhận các kế hoạch của cố vấn về việc xây dựng mối quan hệ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhằm kiềm chế [[Liên Xô]], Reagan quyết định giữ cân bằng thông cáo chung Hoa Kỳ-Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1982 bằng một thỏa thuận "6 điều bảo đảm" với Đài Loan. Thỏa thuận này đã mở cửa cho các công ty quốc phòng của Mỹ chuyển giao và hỗ trợ ngành công nghiệp quốc phòng của Đài Loan một cách lén lút, bao gồm cả dự án IDF.
Dòng 34:
[[Aerospace Industrial Development Corporation|AIDC]] chính thức bắt đầu phát triển dự án IDF vào năm [[1982]], do sự thất bại của không quân Đài Loan (ROCAF) trong việc thu mua những [[máy bay tiêm kích]] mới từ [[Hoa Kỳ]] trước sức ép ngoại giao của cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Dự án có tên gọi là ''An Hsiang'' và được chia ra làm 4 bộ phận vào năm [[1983]]:
 
*''Ying-YangƯng Dương'' (鷹揚): "Soaring Eagle". Phát triển thân máy bay. Hợp tác với [[General Dynamics]].
*''Yun-HanVân Hán'' (雲漢): "Galaxy". Phát triển động cơ và lực đẩy máy bay. Hợp tác với [[Garrett Systems|Garrett]] (Now [[Honeywell]]).
*''Tien-LeiThiên Lôi'' (天雷): "Sky Thunder". Phát triển hệ thống điện tử. Hợp tác với [[GE Aviation Systems|Smiths Industries]], một số bộ phận mua trực tiếp từ [[Lear Astronics]] (sau này là [[BAE Systems|BAE]]), [[Litton Industries|Litton]] (sau này là [[Northrop Grumman]]), và [[Martin-Baker]].
*''Tien-ChienThiên Kiếm'' (天劍): "Sky Sword". Phát triển [[tên lửa không đối không]].
 
IDF được thiết kế để đối phó với các loại máy bay tiêm kích của [[Không quân Quân giải phóng Nhân dân]] Trung Quốc như [[Shenyang J-8|J-8]], [[Chengdu J-7|J-7]], và loại đời mới như [[Nanchang J-12|J-12]], với dự định IDF có hiệu suất ngang với F-16 và [[Dassault-Breguet Mirage 2000|Mirage 2000]]. Nhóm phát triển lực đẩy đã gặp phải những khó khăn lớn trong việc cố gắng phát triển hay tiếp nhận những động cơ phản lực tiên tiến thích hợp. Có những nghiên cứu về việc sử dụng động cơ yếu vì những lý do chính trị hơn là kỹ thuật, tức là Hoa Kỳ không muốn thấy Đài Loan khiêu khích Trung Quốc và như vậy dẫn đến IDF có một "tầm bay không lớn hơn so với F-5E" và "khả năng cường kích không lớn hơn so với F-16". Bất chấp nhiều lý do, nhiều người cho rằng F-CK-1 sẽ có động cơ yếu, có nghĩa là hiệu suất của nó không cùng mức như các máy bay tiêm kích khác của ROCAF (như Block 20 F-16).
 
=== YunVân HanHán: Nghiên cứu Động cơ ===
Những động cơ xuất khẩu tiên tiến như [[General Electric F404]] hay [[Pratt & Whitney F100]] không thể bán cho Đài Loan. Cả [[General Electric J85]] và [[General Electric J79]] đều coi như không phù hợp với về hiệu suất, và đa số các công ty sản xuất [[động cơ]] của [[Châu Âu]] và Mỹ đều từ chối hợp tác với Đài Loan. Đầu tư liên kết với Garrett trở thành một giải pháp thực tế nhất.
 
Dòng 52:
Năm [[1998]], ITEC quyết định đầu tư vào động cơ TFE-1088-12 lực đẩy 12.000 lbf (53 kN), được chỉ định lại tên gọi là TFE-1042-70A vì lý do chính trị. Những nghiên cứu sơ bộ chỉ ra IDF có thể đạt được vận tốc hành trình cao với [[động cơ]] mới. Cùng lúc, [[General Electric Aviation|General Electric]] quyết định đưa vào thị trường động cơ J101/SF, một phiên bản nhỏ hơn của F404. Tuy nhiên sau khi IDF đặt mua, đơn đặt hàng đã phải dừng nửa chừng do vấn đề về ngân sách, kế hoạch nâng cấp động cơ TFE-1088-12 cũng kết thúc.<ref>{{cite book | last = Hua | first = Hsi-Chun | title = Story of Yun Han | year = 1997 | publisher = China Productivity Center | language=Chinese}}</ref> Từ đó, có nhiều lời đồn rằng AIDC đã hoàn thành động cơ nâng cấp bằng nhưng nghiên cứu riêng, tuy nhiên, ROCAF và AIDC chưa bao giờ chính thức công bố bất kỳ việc nâng cấp động cơ phi đội IDF nào.
 
=== YingƯng YangDương: Thiết kế hình dáng khí động học ===
Sự hợp tác giữa AIDC và General Dynamics (GD) được chia thành 4 giai đoạn:
:1. GD phân tích hiệu suất máy bay ROCAF và yêu cầu lực lượng.
Dòng 63:
Nhiều khái niệm thiết kế khung máy bay khác nhau đã được khảo sát (như ống đẩy vec-to 2D của XX-201, cánh tam giáp kép/cánh đuôi kép 401). Sau khi động cơ General Electric J79 chính thức bị hủy bỏ vào năm [[1983]], 3 cấu hình khác đã được AIDC đề xuất. Cấu hình A tương tự như F-5E. Cấu hình B tương tự [[Eurofighter Typhoon]] và [[JAS 39 Gripen|Saab Gripen]]. Cấu hình C tương tự [[F-15]]. Cùng lúc, GD đã làm việc song song trên cấu hình G. Dần dần G-4 được lựa chọn, nhưng với nhiều đặc tính kết hợp của C-2. Trong thời gian này, dự án được đặt tên là "Light Weight Defense Fighter" (Máy bay tiêm kích phòng thủ hạng nhẹ). Năm [[1985]], thiết kế dựa trên cấu hình đã được mở rộng thành thiết kế sơ bộ SE-1. Cuối năm [[1985]], AIDC quyết định bỏ qua giai đoạn nguyên mẫu và trực tiếp đi thẳng vào giai đoạn Full Scale Development (FSD - Phát triển đúng kích thước), để giảm bớt thời gian và tiết kiệm chi phí. Dự án một lần nữa được đổi tên thành "Indigenous Defense Fighter" (Máy bay tiêm kích nội địa). 4 máy bay FSD đã được chế tạo, với 3 chiếc một chỗ và 1 chiếc hai chỗ.<ref name = "yangpaochih">{{cite book | last = Yang | first = Pao-Chih | title = Soaring Eagle: A Development Story of Taiwan's Indigenous Defense Fighter | publisher = Yun Hao Publishing| language=Chinese}}</ref>
 
=== TienThiên LeiLôi: Hệ thống điện tử tích hợp ===
IDF trnag bị với [[radar]] xung Doppler multi-mode GD-53 ''Golden Dragon'', về cơ bản là General Electric [http://www.lockheedmartin.com/data/assets/7729.pdf AN/APG-67] băng tần X phát triển cho F-20, loại radar này được khẳng định chia sẻ một số thành phần và công nghệ của radar [[AN/APG-66]] trên [[F-16]], và loại radar phỏng theo này sẽ giúp khả năng look-down và shoot-down của GD-53 được tăng cường đáng kể khi so sánh với bản gốc [http://www.lockheedmartin.com/data/assets/7729.pdf AN/APG-67], có tầm hoạt động ngang [[AN/APG-66]]. [[Radar]] có thể đồng thời theo dõi 10 mục tiêu và tấn công 1 trong 10 mục tiêu theo dõi với [[tên lửa không đối không]] dẫn đường bằng radar bán chủ động. Thiết kế vốn đã hạn chế, vì vậy IDF hớp nhất một hệ thống điều khiển [[fly-by-wire]] tự động hoàn toàn dư ba hiện đại. Hệ thống điện tử dựa vào kiến trúc mô-đun với kênh MUX số (bộ dồn kênh số) MIL-STD-1553B dư hai. Hệ thống dẫn đường quán tính Honeywell H423, RHAWS TWS-95, và màn hình hiển thị trước buồng lái Bendix-King đã được lựa chọn.<ref name = "jonlake">{{cite book | last = Lake | first = Jon | title = Ching-Kuo: The Indigenous Defence Fighter, WAPJ Vol. 26 | publisher = Aerospace Publishing Ltd}}</ref> Một số năng lực đã bị trì hoãn hay bỏ qua để đáp ứng yêu cầu hiệu suất, từ hạn chế động cơ dẫn đến quản lý trọng lượng chính xác.
 
=== TienThiên ChienKiếm: Tên lửa R&D ===
Dự án Tien Chien của [[Chungshan Institute of Science and Technology|CSIST]] được độc lập hơn, từ khi nó được xem xét bởi một số quan chức để phát triển cho mọi máy bay của ROCAF hơn là duy nhất chỉ là IDF. Tien Chien 1 (TC-1) là một tên lửa tầm nhiệt tầm gần với một hình dạng ngoài tương tự như [[AIM-9 Sidewinder]], trong khi Tien Chien 2 (TC-2) là một tên lửa không chiến ngoài tầm nhìn dẫn đường bằng radar chủ động được tuyên bố cùng lớp với loại [[AIM-120 AMRAAM]].