Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Ninh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Lê Ninh''' ([[1857]]-[[1887]]), hiệu ''Mạnh Khang'', là mộtngười đầu tướngtiên<ref>Theo trong''Tinh [[phongtuyển tràovăn học Việt Nam'' (tập 6, tr. 697).</ref>hưởng ứng chiếu [[Cần Vương]] ở vùng [[Nghệ An]]-[[Hà Tĩnh]], trong [[lịch sử]] [[Việt Nam]].
 
==Tiểu sử==
'''Lê Ninh''' sinh tại làng Trung Lễ, xã Cổ Ngu, tổng Văn Lâm, huyện La Sơn (nay là xã Trung Lễ, huyện [[Đức Thọ]]) tỉnh [[Hà Tĩnh]]. Là con cả của nguyên Bố Chánh [[Bình Định]] Lê Khanh<ref>Cao Xuân Dục ghi ''Lê Kiên'' (tr. 514).</ref>, nênđược ôngtập cònấm, đượcnên gọi là '''Ấm Ninh'''.
 
Ngay từ nhỏ, Lê Ninh đã nổi tiếng là người thông minh, ứng đối nhanh nhẹn, có tinh thần quả cảm...nhưng không chuộng lối học khoa cử.
Dòng 16:
Tin tưởng vào tài năng và nhân cách của các ông, nhiều người dân ở Trung Lễ đã tự nguyện theo ông và ủng hộ nhiều tiền của. Con cháu họ Lê cũng tham gia rất đông và nhiều người sau này đã trở thành những tướng lĩnh tài giỏi như Lê Diên, Lê Trực, Lê Võ, Lê Phác, Lê Hoạt, Lê Phất... Lúc đầu, cha ông thấy việc làm này sẽ gặp phải nhiều hiểm nguy nên can ngăn, nhưng sau thấy các con quá hăng say nên ông cũng đã dốc hết gia tài để cùng lo việc ''phò vua, cứu nước''.
 
Buổi đầu, Lê Ninh mộ trai tráng ở làng và ở Phù Long, Yên Trường ([[Hưng Nguyên]], ([[Nghệ An]],. Phù Long là quê vợ ông) lập đại đồn Trung Lễ, mở xưởng rèn đúc vũ khí, tích trữ lương thực và luyện tập đội ngũ để sẵn sàng chiến đấu.
 
===Đánh hạ thành Hà Tĩnh===
Dòng 27:
Hạ xong thành Hà Tĩnh, Lê Ninh lên Sơn phòng Phú Gia giao nộp chiến lợi phẩm lên vua Hàm Nghi. Ông được nhà vua khen ngợi, phong làm Bang biện quân vụ, giao coi giữ đại đồn Trung Lễ. Đây là chiến công đầu tiên và cũng là chiến công vang dội nhất của ông.
 
Cuối năm 1885, lính Pháp hiệp với quân triều thân Phápmột số người theo [[Thiên Chúa giáo]], từ [[Nghệ An]] kéo đến tấn công đại đồn Trung Lễ và phóng hỏa đốt làng. Trước lực lượng đông đảo cùng với hỏa lực mạnh, Lê Ninh đã cho quân rút về vùng rừng núi ở giữa hai huyện [[Hương Sơn]] và [[Thanh Chương]], rồi hợp với lực lượng của [[Phan Đình Phùng]].
===Chiếm lĩnh đồn Dương Liễu===
Dòng 37:
Ở nơi nhiều sơn lam chướng khí, Lê Ninh bị ốm nặng và qua đời ngày 15 tháng 12 năm 1887, khi mới 30 tuổi.
Sợ đối phương quật mồ, đồng đội đã bí mật chôn giấu thân xác ông ở một bãi dâu nơi quê vợ ông (làng PhúcPhù HậuLong, huyện [[Hưng Nguyên]]). Năm 1918, con cháu ông mới dời mộ về táng tại chính quán là làng Trung Lễ.
 
Con trai ông là Lê Nghệ (1883-1916) cũng tham gia phong trào chống Pháp, bị bắt và mất trong ngục năm 1916, lúc 33 tuổi.
Dòng 50:
 
Năm 1905, chí sĩ Phan Bội Châu đã kể về ông trong [[Việt Nam vong quốc sử]] như sau:
:''Lê Ninh, người Hà Tĩnh, do chân ấm sinh đứng lên xướng Nghĩa đảng. Ninh là con nhà thế gia, giàu có, lúc thiếu niên biết nước tất mất, đã có chí thanh gươm yên ngựa lên đường ruổi dong, kết nạp hiệp khách, tung tiền ra như bùn, thủ hạ thường có mấy trăm nghĩa sĩ. Lúc Thuận Kinh bị mất, ông lập tức dựng cờ nghĩa vâng chiếu của Xuất đế (vua Hàm Nghi) làm tham tán Nghĩa quân, nhiều lần đánh bại quân Pháp, chém đầu tướng Pháp. (Ông) mắc bệnh rồi mất, người Pháp phân tán dân làng ông đi, xóa bỏ cả tên gọi của thôn xã<ref>Trong phong trào Cần Vương, làng Trung Lễ bị đối phương triệt hạ hai lần. Họ đã đốt nhà, cướp của, đuổi dân đi và đổi tên làng thành Lạc Thiện. Sau [[Cách mạng tháng Tám]] (1945), làng lấy lại tên Trung Lễ, sau cải cách ruộng đất lại đổi tên thành xã Trung Nghĩa.</ref>. Anh em ông năm người, (thì) bốn người chết vì nạn giặc Pháp. Tướng tá dưới cờ của ông sau theo Phan Đình Phùng, đều có tiếng là chiến tướng. Công tuy không thành, nhưng ông thực là người tiêu biểu nhất trong Nghĩa đảng vậy.''<ref>''Việt Nam vong quốc sử'', tr. 86-87.</ref>
 
Cuộc khởi nghĩa của Lê Ninh sau đó đã được kể lại trong hai sáng tác dài đó là:
* '''Bài ca cậu Ấm Ninh khởi nghĩa''' : đăng trên báo ''Tri Tân'' số 156, ra ngày 24 tháng 8 năm 1944.
* '''Bài phú Trung Lễ thất hỏa''' (''Làng Trung Lễ bị đốt''): cũng đã đăng trên tờ báo trên số 184, ra ngày 26 tháng 10 năm 1944.
 
Cả hai bài đều do Lê Trọng Đôn (người Trung Lễ tức cùng làng với Lê Ninh, và rất thể ông là người sống cùng thời) sáng tác, và đều đã được giới thiệu lại trong ''Tinh tuyển văn học Việt Nam''(tập 6).
 
Hiện Lê Ninh được thờ trang trọng tại ''Nhà thờ họ Lê'' (thường gọi là ''nhà thờ Lê Ninh'') ở quê hương ông.
Hàng 80 ⟶ 86:
:''Thân thể này thề với sông lam núi Hồng quyết không hòa với bọn xâm lăng.''
|}
 
==Chú thích==
{{reflist}}