Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bosna và Hercegovina”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n chỉnh cách viết thế kỷ, replaced: thế kỷ 20 → thế kỷ XX, hế kỷ 19 → hế kỷ XIX (2) using AWB |
n clean up, replaced: hế kỷ thứ 10 → hế kỷ thứ X, hế kỷ 12 → hế kỷ XII, hế kỷ 13 → hế kỷ XIII, hế kỷ 14 → hế kỷ XIV, hế kỷ 15 → hế kỷ XV, hế kỷ 17 → hế kỷ XVII, using AWB |
||
Dòng 91:
=== Thời kỳ Tiền Slavơ (đến năm 958) ===
{{chính|Lịch sử Bosnia và Herzegovina (đến năm 958)}}
[[Tập tin:Daorson.jpg|200px|nhỏ|trái|Những bức tường của [[Daorson]] cổ, Ošanići gần [[Stolac]], Bosnia và Herzegovina, thế kỷ thứ
Bosnia đã có người ở ít nhất từ [[thời đồ đá mới]]. Đầu [[thời đại đồ đồng|thời đồ đồng]], dân cư dồ đá mới bị thay thế bởi sắc tộc hiếu chiến hơn có thể có nguồn gốc [[Proto-Indo-Europeans|Indo-European]], người Illyre hay [[Illyrian]]. Những người [[Người Celt|Celtic]] nhập cư ở [[thế kỷ thứ
Vùng đất ban đầu là một phần của [[Illyria]] cho tới sự chiếm đóng Roma. Sau sự chia rẽ của Đế chế Roma giai đoạn 337 và 395, Dalmatia và Pannonia trở thành những phần của [[Đế chế Tây Roma]]. Một số người cho rằng vùng này đã bị những người [[Ostrogoth]] chinh phục năm 455. Sau đó nó thay đổi chủ giữa những người [[Alan]] và người [[Người Hung|Huns]]. Tới thế kỷ thứ
=== Bosnia thời Trung Cổ (958–1463) ===
{{chính|Lịch sử Bosnia và Herzegovina (958–1463)}}
Hiểu biết hiện nay về tình hình chính trị ở tây Balkan [[Đầu Thời Trung Cổ]] không nhiều và mâu thuẫn. Ngay khi tới nơi, người Slavơ đã mang cùng với họ một cấu trúc xã hội bộ tộc, và nó có thể đã tan rã nhường chỗ cho [[phong kiến|chế độ phong kiến]] khi người [[Người Frank|Frankish]] tới vùng này hồi cuối [[thế kỷ
Vương triều đáng chú ý đầu tiên của Bosnia, [[Ban Kulin]], đã có hoà bình và ổn định trong gần ba thập kỷ và tăng cường phát triển kinh tế quốc gia thông qua các hiệp ước với [[Cộng hoà Ragusa|Dubrovnik]] và [[Cộng hoà Venice|Venice]]. Sự cầm quyền của ông cũng đánh dấu sự khởi đầu một cuộc tranh cãi với [[Nhà thờ Bosnia]], một giáo phái Thiên chúa bản xá bị cả các nhà thờ [[Giáo hội Công giáo Rôma|Cơ đốc giáo La Mã]] và [[Nhà thờ Chính thống|Chính thống giáo Serbia]] coi là dị giáo. Đối đầu với những nỗ lực của người Hungary nhằm sử dụng chính trị nhà thờ trước vấn đề này như một cách thức để tuyên bố chủ quyền với Bosnia, Kulin đã tổ chức một hội đồng các lãnh đạo nhà thờ địa phương để bác bỏ sự dị giáo và đi theo Cơ đốc giáo năm 1203. Dù vậy, những tham vọng của Hungary vẫn không thay đổi trong một thời gian dài sau khi Kulin chết năm 1204, chỉ ngừng lại sau cuộc xâm lược bất thành năm 1254.
[[Tập tin:Poveljakulinbana.png|nhỏ|phải|Hiến chương của Kulin Ban - hiệp ước với Dubrovnik. Hiện ở Bảo tàng Ermitage tại [[Sankt-Peterburg]], Nga]]
Lịch sử Bosnia từ đó cho tới đầu [[thế kỷ
Các nhà sử học cho rằng ông đã làm lễ lên ngôi trong một [[Nhà thờ Chính thống Serbia]] [[Tu viện Mileševa]].<ref name=Rastko>{{chú thích web|url=http://rastko.org.rs/istorija/zfajfric-kotromanici.html#_Toc486040907|title=Dr. Željko Fajfric: Kotromanići}}</ref> Một khả năng khác, do P. Anđelić đưa ra và dựa trên bằng chứng khảo cổ học, rằng ông đã lên ngôi tại Mile gần [[Visoko thời Trung Cổ|Visoko]] trong nhà thờ được xây dựng trong thời cai trị của [[Stephen II, Ban của Bosnia|Stephen II Kotromanić]], nơi ông được [[chôn cất]] cùng người chú/bác Stjepan II.<ref name=Mile>{{chú thích web|url=http://www.aneks8komisija.com.ba/main.php?id_struct=6&lang=1&action=view&id=1341 Mile|title=declared as national monument|year=declared as national monument}}</ref><ref name=An>Anđelić Pavao, Krunidbena i grobna crkva bosanskih vladara u Milima (Arnautovićima) kod Visokog. Glasnik Zemaljskog muzeja XXXIV/1979., Zemaljski muzej Bosne i Hercegovine, Sarajevo, 1980,183-247</ref> Tuy nhiên, sau khi ông qua đời năm 1391, Bosnia rơi vào một giai đoạn suy tàn kéo dài. [[Đế quốc Ottoman|Đế chế Ottoman]] đã khởi động [[Những cuộc chiến tranh Ottoman tại châu Âu|cuộc chinh phục châu Âu]] của họ và đặt ra mối đe doạ với vùng [[Balkan]] trong suốt nửa sau [[thế kỷ
=== Thời kỳ Ottoman (1463–1878) ===
Dòng 116:
Khi Đế chế Ottoman thịnh vượng và mở rộng vào Trung Âu, Bosnia thoát khỏi sức ép trở thành tỉnh biên giới và có một giai đoạn bình ổn và thịnh vượng khá dài. Một số thành phố, như Sarajevo và [[Mostar]], được thành lập và phát triển trở thành các trung tâm thương mại và [[văn hoá đô thị|văn hoá]] lớn của vùng. Bên trong những thành phố đó, nhiều Sultan và các thống đốc cung cấp tài chính cho việc xây dựng nhiều công trình quan trọng của [[Kiến trúc Bosnia và Herzegovina|kiến trúc Bosnia]] (như [[Stari Most]] và [[Nhà thờ Hồi giáo Gazi Husrev-beg]]). Hơn nữa, số lượng người Bosnia có ảnh hưởng quan trọng trong văn hoá và [[lịch sử chính trị|chính trị]] trong thời gian này khá lớn.<ref name="Riedlmayer"/> Các binh sĩ Bosnia chiếm một thành phần lớn trong mọi cấp bậc chỉ huy quân sự của Ottoman trong [[Trận Mohács (1526)|Trận Mohács]] và [[Trận Krbava field|chiến trường Krbava]], hai thắng lợi quyết định về quân sự, trong khi nhiều người Bosnia khác thăng tiến qua các cấp bậc quân sự Ottoman để nắm giữ những vị trí quyền lực cao nhất nhất trong Đế chế, gồm các đô đốc, tướng lĩnh, và [[Vizier|đại tư tế]]. Nhiều người Bosnia cũng để lại dấu ấn vĩnh cửu trong văn hoá Ottoman, trở thành các nhân vật thần bí, các học giả, và những nhà thơ nổi tiếng bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Ả Rập, và [[Ngôn ngữ Ba Tư#Các thổ ngữ và ngôn ngữ liên quan chặt chẽ|các ngôn ngữ Ba Tư]].<ref name="Imamovic"/>
Tuy nhiên, tới cuối [[thế kỷ
=== Cai trị Áo-Hung (1878–1918) ===
Dòng 323:
* [[Banja Luka]], "Thành phố Xanh"; thành phố nghệ thuật, thành phố thể thao, thành phố 3 quốc gia và văn hoá, thành phố thủ phủ của Srpska.
* [[Bihać]] và sông [[Una (Sava)|Una]] với các thác nước và [[Sông Una]], bên trong Vườn Quốc gia Una;
* [[Doboj]] và pháo đài [[thế kỷ
* [[Jajce]] và thác nước của nó;
* Sông [[Neretva]] và các khe sông [[Rakitnica]] tại [[Neretva|Thượng Neretva]];
|