Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhiễm sắc thể thường”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎top: AlphamaEditor, sửa liên kết chưa định dạng, Executed time: 00:00:22.5390980 using AWB
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
Một '''nhiễm sắc thể thường''' (tiếng Anh: autosome) là một [[nhiễm sắc thể]] mà không phải là một [[nhiễm sắc thể giới tính]].<ref>{{chú thích sách | last=Griffiths | first=Anthony J. F. | title=An Introduction to genetic analysis | year=1999 | publisher=W.H. Freeman | location=New York | isbn=0-7167-3771-X | pages= | url=https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/bv.fcgi?highlight=autosome&rid=iga.section.222}}</ref> Các nhiễm sắc thể của một cặp nhiễm sắc thể thường trong một tế bào lưỡng bội luôn đồng dạng, không giống như ở trong các cặp nhiễm sắc thể giới tính có thể có cấu trúc khác nhau. [[DNA]] trong nhiễm sắc thể thường thì nói chung được biết đến với tên gọi '''atDNA''' hoặc '''auDNA '''(autosome DNA).<ref>{{chú thích web | url = http://www.isogg.org/wiki/Autosomal_DNA | tiêu đề = Autosomal DNA | author = | ngày = | ngày truy cập = 17 tháng 12 năm 2017 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref>
 
Ví dụ, [[Người|con người]] có một bộ gen lưỡng bội thường gồm 22 cặp nhiễm sắc thể thường và một cặp [[nhiễm sắc thể giới tính]] (tổng cộng 46 cặp nhiễm sắc thể). Các cặp nhiễm sắc thể thường được ký hiệu bằng số (1–22 ở người) đại khái theo thứ tự kích cỡ, trong khi đó nhiễm sắc thể giới tính được ký hiệu bằng chữ cái.<ref>{{chú thích web | url = http://ghr.nlm.nih.gov/glossary=autosome | tiêu đề = Resources | author = | ngày = | ngày truy cập = 17 tháng 12 năm 2017 | nơi xuất bản = Genetics Home Reference | ngôn ngữ = }}</ref> Cặp nhiễm sắc thể giới tính bao gồm hai [[nhiễm sắc thể X]] ở con cái hoặc một X và một [[Nhiễm sắc thể Y|Y]] ở con đực. (Các dạng kết hợp bất thường như XYY, [[Hội chứng Klinefelter|XXY]], XXX, XXXX, XXXXX hay XXYY, trong số [[Thể lệch bội|nhữgnhững dạng kết hợp nhiễm sắc thể giới tính khác]], được ghi nhận có xảy ra và thường gây ra các bất thường trong phát triển.)
 
Nhiễm sắc thể thường vẫn chứa các gen quyết định giới tính mặc dù chúng không phải nhiễm sắc thể giới tính. Ví dụ, gen SRY trên nhiễm sắc thể Y mã hóa thành phần phiên mã TDF và là tối quan trọng đối với việc quyết định giới tính đực trong quá trình phát triển. TDF hoạt động bằng cách kích hoạt gen SOX9 trên nhiễm sắc thể 17, vậy nên đột biến gen SOX9 có thể khiến con người với nhiễm sắc thể Y phát triển thành nữ.<ref>Foster, Jamie W., et al. "Campomelic dysplasia and autosomal sex reversal caused by mutations in an SRY-related gene." ''Nature'' 372.6506 (1994): 525–529.</ref>