Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mario Ančić”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→Liên kết ngoài: AlphamaEditor, thêm thể loại, Executed time: 00:00:17.5199699 using AWB |
|||
Dòng 41:
Ở lứa tuổi thiếu niên, Ančić đã nổi lên sau khi đánh bại hạt giống số 7 [[Roger Federer]] tại [[Giải Vô địch Wimbledon|Wimbledon]] năm 2002. Wimbledon cũng là [[Grand Slam (quần vợt)|Grand Slam]] thành công nhất của anh khi từng lọt vào bán kết năm 2004. Từ đó, nhiều người coi anh là truyền nhân của tay vợt [[Goran Ivanišević]], nhà vô địch Wimbledon 2001 và cựu số 2 thế giới, khiến anh thường được gọi là "Goran mới"<ref name="New Goran">{{chú thích báo|url=http://news.bbc.co.uk/sport2/hi/tennis/wimbledon/2066290.stm|title="New Goran" stuns Wimbledon|publisher=[[BBC Sport]]|date=ngày 25 tháng 6 năm 2002|accessdate=ngày 5 tháng 10 năm 2008 | first=Alex | last=Perry}}</ref> hay "Tiểu Goran".<ref name="Baby Goran' stands in Henman path">{{chú thích báo|url=http://news.bbc.co.uk/sport2/hi/tennis/3849905.stm|title=Baby Goran' stands in Henman path|publisher=[[BBC Sport]]|date=ngày 29 tháng 6 năm 2004|accessdate=ngày 5 tháng 10 năm 2008 | first=Caroline | last=Cheese}}</ref>
Trong khoảng thời gian 2007-2008, bệnh bạch cầu đơn nhân và những chấn thương đã buộc Ančić phải hủy hàng loạt giải đấu lớn nhỏ, và thứ hạng của anh từ số 9 vào tháng 1 năm 2017 đã xuống số 125 vào tháng 1 năm 2008.<ref name="Will injuries, illness allow Ancic to regain top-10 form?">{{chú thích web|url=http://sports.espn.go.com/sports/tennis/news/story?id=3064618|title=Will injuries, illness allow Ancic to regain top-10 form?|publisher=[[ESPN]]|author=Ravi Ubha|date=ngày 19 tháng 12 năm 2007|accessdate=ngày 17 tháng 10 năm 2008}}</ref><ref name="2007 rankings">{{chú thích web|url=http://www.atpworldtour.com/Tennis/Players/An/M/Mario-Ancic.aspx|title=Ancic Rankings History – 2007|publisher=ATP Tour|accessdate=ngày 28 tháng 2 năm 2015}}</ref> Các huấn luyện viên của anh bao gồm chuyên gia Fredrik Rosengren
== Tham khảo ==
|