Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhóm ngôn ngữ Việt”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 105:
 
* Thanh điệu trong tiếng Việt bắt nguồn từ các âm vị ở cuối từ trong ngôn ngữ tổ tiên chung của ngữ chi Việt. Thanh ''sắc'' và ''nặng'' của tiếng Việt bắt nguồn từ [[âm tắc họng]] /-ʔ/, thanh ''hỏi'' và ''ngã'' bắt nguồn từ âm /-h/ và /-s/, còn thanh ''ngang'' và ''huyền'' từ các trường hợp còn lại. (Trường hợp ''chết'' (từ *k-ceːt) và ''ít'' (từ *ʔiːt) thì tuy ngôn ngữ nguyên thủy không kết thúc bằng /ʔ/, nhưng vẫn được viết với dấu ''sắc'' (hoặc ''nặng'') vì đây là những âm tiết đóng [chêt - chết, it - ít]).
* Các cụm phụ âm đầu *k-l, *b-l và *p-l được lưu giữ ở nhiều ngôn ngữ (thường kèm theo việc âm tiết hóa phụ âm đầu với nguyên âm chèn thêm). *k-l, trở thành /ʈʂ~ʈ/ (viết là [tr]) trong tiếng Việt. *b-l và *p-l đều nhưngcũng trở thành /ʈʂ~ʈ/ (viết là [tr]) trong mọi phương ngữ Nam Bộ, nhưng *b-l và *p-l lại thường trở thành /z/ (viết là [gi]) trong các phương ngữ Bắc Bộ (so sánh giời và trời, gio và tro, giồng và trồng, giai và trai). *k-l phát triển thành /tl/ trong tiếng Mường, *b-l và *p-l được giữ nguyên (nhưng có phương ngữ mà cả ba đều hợp thành /tl/).
* Hai [[âm bật hơi]] *pʰ và *kʰ được [[phụ âm xát|xát hóa]] thành lần lượt /f/ [ph] và /x/ [kh] ở những phương ngữ Bắc Bộ, nhưng được lưu giữ tương đối hoàn chỉnh các phương ngữ Trung Bộ, một số phương ngữ Nam Bộ và trong các ngôn ngữ khác.