Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Palau”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up using AWB
Dòng 119:
Hoa Kỳ duy trì một phái đoàn ngoại giao và một đại sứ quán tại Palau, song hầu hết khía cạnh trong quan hệ hai bên được thực hiện theo các dự án được tài trợ trong khuôn khổ Hiệp ước, do [[Phòng Quốc hải vụ]] của [[Bộ Nội vụ Hoa Kỳ]] chịu trách nhiệm.<ref>[https://web.archive.org/web/20071024234958/http://www.doi.gov/oia/Firstpginfo/oia_responsibilities.html Responsibilities and Authorities]. USDOI Office of Insular Affairs. doi.gov</ref> Trên chính trường quốc tế, Palau thường bỏ phiếu giống Hoa Kỳ trong các nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.<ref>[http://www.state.gov/documents/organization/82642.pdf General Assembly – Overall Votes – Comparison with U.S. vote] lists Palau as in the country with the third high coincidence of votes. Palau has always been in the top three.</ref> Palau là một thành viên của Hiệp ước Nauru.<ref name=radioaustralia>{{cite news |title=Pacific nations extend bans on tuna fishing |url=http://www.radioaustralia.net.au/international/2010-10-05/pacific-nations-extend-bans-on-tuna-fishing/175350|work=[[Radio Australia]] |publisher=[[East West Center]] |date=5 October 2010 |accessdate=6 October 2010}}</ref>
 
Năm 1981, Palau bỏ phiếu lập ra hiến pháp phi hạt nhân đầu tiên trên thế giới. Hiến pháp này cấm chỉ sử dụng, lưu trữ và xử lý các vũ khí hạt nhân, hóa học độc hại, không khí và sinh học mà không được 3/4 dân số tán thành trong một cuộc trưng cầu dân ý.<ref>{{citeChú thích web| titletiêu đề = The Constitution of the Republic of Palau | url=http://www.paclii.org/pw/legis/consol_act/cotrop359/ | publishernhà xuất bản=The Government of Palau | datengày = 2 April 1979 | accessdatengày truy cập =1 November 2009}}</ref> Điều cấm này làm trì hoãn quá trình chuyển đổi Palau thành quốc gia độc lập, do trong khi đàm phán Hoa Kỳ nhất định muốn vận hành các tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân và vũ khí hạt nhân cất trong kho trên lãnh thổ Palau,<ref>{{citeChú thích web| titletiêu đề = Issues Associated. With Palau's Transition to Self-Government | url=http://archive.gao.gov/d26t7/139356.pdf | publishernhà xuất bản=[[Government Accountability Office]] |datengày = July 1989| accessdatengày truy cập =1 November 2009}}</ref> xúc tiến các chiến dịch đòi độc lập và phi hạt nhân hóa.<ref>{{citation |last= Morei |first= Cita | author-link = Cita Morei | contribution = Planting the mustard seed of world peace | editor-last = dé Ishtar | editor-first = Zohl | title = Pacific women speak out for independence and denuclearisation | publisher = Women's International League for Peace and Freedom (Aotearoa) Disarmament and Security Centre (Aotearoa) Pacific Connections | location = Christchurch, Aotearoa/New Zealand Annandale, New South Wales, Australia | year = 1998 | isbn = 9780473056667}}</ref> Sau một vài cuộc trưng cầu dân ý thất bại trong việc đạt đa số 3/4, người dân Palau cuối cùng tán thành Hiệp ước vào năm 1994.<ref>{{Cite news| title = Work Ended, Trusteeship Council Resists U.N. Ax for Now | url=https://www.nytimes.com/1994/11/06/world/work-ended-trusteeship-council-resists-un-ax-for-now.html?scp=2&sq=palau&st=nyt | work=The New York Times | date = 6 November 1994 | accessdate =1 November 2009 | first=Richard D. | last=Lyons}}</ref><ref>{{Cite journal| title = Trusteeship Mission reports on Palau voting. (plebiscite on the Compact of Free Association with the United States) | volume = 27 | issue = 2 | publisher=[[UN Chronicle]] |date = June 1990}}</ref>
 
===Hành chính===
Dòng 210:
Nền kinh tế của Palau bao gồm chủ yếu là các ngành [[du lịch]], [[nông nghiệp]] tự cung tự cấp, và [[ngư nghiệp]]. Hoạt động du lịch tập trung vào việc lặn biển và lặn trong môi trường biển đảo phong phú, bao gồm tham quan các bức tường san hô và xác tàu chiến bị đắm trong [[chiến tranh thế giới thứ hai]] ở ngoài khơi Palau. Chính phủ là nguồn sử dụng lao động lớn đối với lực lượng lao động quốc gia, các hoạt động kinh tế của Palau dựa nhiều vào sự hỗ trợ tài chính từ [[Hoa Kỳ|Mỹ]]. Lượng khách du lịch đến Palau tăng 50.000 góp phần đem lại nguồn thu lớn cho Palau trong năm tài chính 2000-2001. Dân số được hưởng mức thu nhập bình quân đầu người gấp đôi so với quốc gia láng giềng là [[liên bang Micronesia]]. Triển vọng cho ngành du lịch trọng điểm đã được hỗ trợ rất nhiều bởi việc mở rộng du lịch hàng không ở Thái Bình Dương, sự thịnh vượng ngày càng tăng của các nước [[Đông Á]].
 
Trong tháng 7 năm 2004, hãng hàng không quốc gia Palau Micronesia Air đã được khai trương với các điểm đến ở Palau, [[Guam]], [[Micronesia]], [[Nhật Bản]], [[Úc|Australia]], và [[Philippines]]. Bằng cách cung cấp giá vé thấp, hãng hàng không này đã được lên kế hoạch trở thành một đối thủ cạnh tranh với hãng hàng không Continental Micronesia của Liên bang Micronesia, tuy nhiên nó không còn hoạt động trong tháng 12 năm đó, chủ yếu là do giá nhiên liệu tăng cao. Hãng hàng không Palau Micronesia Air đã không hoạt động lại từ đó nhưng hãng này đã thực hiện một loạt các liên minh liên danh hàng không với hãng hàng không [[Asian Spirit]], với hoạt động các chuyến bay giữa Palau và [[Việt Nam]] thông qua các điểm trung chuyển hành khách là ([[Davao (thành phố)|Davao]], [[Cebu]] và [[Manila]]) của Philipines. Có hai chuyến bay hàng tuần từ [[Thành phố Hồ Chí Minh]] thông qua điểm trung chuyển hành khách ở Cebu để đến Palau và các chuyến bay hàng tuần từ Davao. Chỉ sau vài tháng hãng hàng không Asian Spirit ngừng các chuyến bay từ Philippines đến Palau.<ref>{{chúChú thích web|titletiêu đề=Palau's PacificFlier relooks business plan after suspension|url=http://www.flightglobal.com/articles/2010/08/13/346121/palaus-pacificflier-relooks-business-plan-after-suspension.html|accessdatengày truy cập=ngày 13 tháng 9 năm 2011}}</ref>
 
Trong tháng 11 năm 2006, các Ngân hàng Palau chính thức tuyên bố phá sản. Ngày [[13 tháng 12]] cùng năm ngân hàng quốc gia Horizon Palau báo cáo rằng có tổng cộng 641 người gửi tiền đã bị ảnh hưởng bởi sự kiện này. Trong số 641 tài khoản, có 398 tài khoản gửi ít hơn 5000 USD, phần còn lại khác nhau, từ 5000USD đến 2 triệu USD. Ngày 12 tháng 12, 79 người của những người bị ảnh hưởng nhận tiền đền bù, một trong số đó là từ Đài Loan, trong khi phần còn lại là các tài khoản từ Palau, Philipines và Mỹ. Ông Toribiong thống tống ngân hàng quốc gia Horizon Palau nói: ''"Kinh phí cho thanh toán đến từ sự cân bằng vốn vay cho Palau từ chính phủ Đài Loan"''.