Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hoàng đế”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của Mai Trần Bảo Anh (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Collector143 Thẻ: Lùi tất cả |
|||
Dòng 243:
Vua ở [[Việt Nam]] mỗi khi giành được độc lập từ Trung Quốc cũng tự xưng Hoàng đế để không kém vua Trung Quốc về mặt danh xưng, như [[Lý Nam Đế]], [[Hậu Lý Nam Đế]], [[Mai Hắc Đế]], [[nhà Đinh]], [[nhà Tiền Lê]], [[nhà Lý]], [[nhà Trần]], [[nhà Hậu Lê]], [[nhà Mạc]], [[nhà Tây Sơn]] và [[nhà Nguyễn]]. Mặc dù vậy, để tránh xung đột không cần thiết với các triều đại Trung Quốc vì thuyết [[thiên mệnh]] về quyền lực nói rằng một trời không thể có hai hoàng đế hay thiên tử, các hoàng đế Việt Nam vẫn hay dùng danh xưng quốc vương khi ngoại giao với Trung Quốc như chỉ đơn giản là "An Nam Quốc vương". Việc này là một trong những dấu hiệu cho thấy ý tưởng "Việt Nam bình đẳng với Trung Quốc" mà vẫn còn nguyên vẹn cho đến [[thế kỷ 20]] <ref>{{chú thích|author=Tuyet Nhung Tran, Anthony J. S. Reid|title=Việt Nam Borderless Histories|year=2006|publisher=The University of Wisconsin Press|location=Madison, Wisconsin|isbn=978-0-299-21770-9|ref=harv|page=67}}</ref>.
Năm [[1806]],
Cũng tương tự các hoàng đế [[Trung Quốc]], khi các triều đại mới được thành lập, vua cũng truy tôn các tổ tiên của mình làm hoàng đế, như [[nhà Trần]] truy tôn từ Trần Hấp tới [[Trần Lý]], [[nhà Mạc]] truy tôn từ [[Mạc Đĩnh Chi]] tới Mạc Hịch, [[nhà Nguyễn]] truy tôn từ [[Nguyễn Hoàng]] tới các [[chúa Nguyễn]] làm hoàng đế.
|