Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Raymond Aron”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n stub sorting, replaced: hế kỷ 20 → hế kỷ XX, London → Luân Đôn using AWB
Dòng 1:
{{Infobox philosopher
| region = [[Triết học phương Tây]]
| era = Triết học thế kỷ 20XX
| image = Raymond Aron (1966) by Erling Mandelmann.jpg
| caption = Raymond Aron (1966) bởi [[Erling Mandelmann]]
Dòng 20:
'''Raymond Claude Ferdinand Aron''' ({{IPA-fr|ʁɛmɔ̃ aʁɔ̃|lang}}; 14 tháng 3 1905 – 17 tháng 10 1983) là một triết gia, nhà xã hội học, khoa học gia chính trị và ký giả.
 
Ông được biết tới nhiều nhất nhờ cuốn sách viết năm 1955 ''[[Thuốc phiện của giới trí thức]]'', tựa đề mà đảo ngược tuyên bố của [[Karl Marx]] cho tôn giáo là thuốc phiện của người dân - Aron lập luận rằng ở Pháp sau chiến tranh, chủ nghĩa Mác là thuốc phiện của giới trí thức. Trong cuốn sách này, Aron quở trách trí thức Pháp về những gì ông mô tả như là những lời chỉ trích khắc nghiệt của họ về [[chủ nghĩa tư bản]] và [[dân chủ]] và sự bảo vệ đồng thời của họ đối với áp bức, những sự tàn bạo và không khoan dung của chủ nghĩa Mác. Nhà phê bình Roger Kimball cho đó là "một cuốn sách gây nhiều ảnh hưởng của thế kỷ hai mươi." <ref>Kimball, Roger (2001). "[http://www.newcriterion.com/articles.cfm/aron-kimball-2179Raymond Aron & the power of ideas] {{webarchive|url=https://web.archive.org/web/20131110230108/http://www.newcriterion.com/articles.cfm/aron-kimball-2179Raymond |date=2013-11-10 }}". ''New Criterion'', May 2001</ref> Aron cũng được biết đến với tình bạn lâu dài của ông, đôi khi tiêu cực, với triết gia [[Jean-Paul Sartre]]. <ref>''Memoirs: fifty years of political reflection'', By Raymond Aron (1990)</ref>
 
Ông cũng được biết tới với cuốn sách viết năm 1973, ''The Imperial Republic: The United States and the World 1945-1973'', gây ảnh hưởng tới [[Zbigniew Brzezinski]] và [[Henry Kissinger]], trong số những người khác.
Dòng 27:
 
==Cuộc sống và sự nghiệp==
Sinh ra ở Paris, con trai của một luật sư Do Thái thế tục, Aron học tại École Normale Supérieure, nơi ông gặp [[Jean-Paul Sartre]], người đã trở thành bạn của ông và là đối thủ trí tuệ suốt đời.<ref name="Garland"/> Ông là một nhà nhân văn duy lý (rational humanist), <ref>[https://books.google.com/books?id=R_pN217buekC&pg=PA170 p.170]</ref><ref>Aron (1994) ''In Defense of Political Reason'', p.170</ref> và là một nhà lãnh đạo trong số những người không đi theo [[chủ nghĩa hiện sinh]]. <ref name="Carruth1993p932">Carruth, Gorton (1993) ''The encyclopedia of world facts and dates'', [https://books.google.com/books?id=zHwRAQAAMAAJ p.932]</ref> Aron đứng đầu trong kỳ thi Agrégation trong lĩnh vực triết học năm 1928, năm Sartre thi rớt trong cùng kỳ thi. Năm 1930, ông nhận bằng tiến sĩ triết học lịch sử từ École Normale Supérieure.
 
Ông từng dạy triết học xã hội tại Đại học Toulouse chỉ một vài tuần khi Thế Chiến II bắt đầu; ông gia nhập không quân Pháp. Khi Pháp bị đánh bại, ông tới LondonLuân Đôn để gia nhập lực lượng người Pháp Tự Do, biên tập tờ báo, France Libre (Nước Pháp tự do).
 
Khi chiến tranh kết thúc, Aron trở về Paris để dạy xã hội học tại École Nationale d'Administration và Sciences Po. Từ 1955 đến 1968, ông giảng dạy tại Sorbonne, và sau năm 1970 tại Collège de France. Năm 1953, ông kết bạn với nhà triết học trẻ người Mỹ Allan Bloom, người đang giảng dạy tại Sorbonne.
Dòng 35:
Là một nhà báo trong suốt cả cuộc đời, Aron vào năm 1947 đã trở thành một nhà bình luận có ảnh hưởng của tờ Le Figaro, một vị trí ông giữ trong ba mươi năm cho đến khi ông gia nhập L'Express, nơi ông đã viết một mjc về chính trị cho đến kh qua đời.
 
Ông được bầu là một thành viên danh dự nước ngoài của Học viện Mỹ thuật và Khoa học Mỹ năm 1960. <ref name=AAAS>{{cite web|title=Book of Members, 1780-2010: Chapter A|url=http://www.amacad.org/publications/BookofMembers/ChapterA.pdf|publisher=American Academy of Arts and Sciences|accessdate=25 April 2011}}</ref>
 
Aron chết ở Paris vì bị nhồi máu cơ tim vào ngày 17 tháng 10 1983.