Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bộ ba mã di truyền”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thay sơ đồ và sửa một số lỗi ở mã nguồn của bản đầu tiên. |
n stub sorting, replaced: London → Luân Đôn using AWB |
||
Dòng 1:
'''Bộ ba mã di truyền''' là tập hợp 3 nu-clê-ô-tit liền nhau trên phân tử a-xit nu-clê-ic mang thông tin về a-xit amin và tiến trình dịch mã.
===Khái niệm===
*Nguồn gốc thuật ngữ :
Thuật ngữ «bộ ba mã di truyền» được dịch từ thuật ngữ tiếng Anh «triplet genetic code». Nội hàm của thuật ngữ này dùng để chỉ «mã di truyền (genetic code) gồm ba vật thể cùng loại (triplet) »; ngoại diện của thuật ngữ chỉ «3 vật thể cùng loại» ở đây là 3 nu-clê-ô-tit có chứa thông tin di truyền.
*Ví dụ về mã và dịch mã <ref name="Bùi Phúc Trạch">
Hai người nọ muốn viết thư bí mật, quy ước với nhau : chữ A là số 001, chữ B là số 002, chữ C là số 003 v.v. Người ta nói : chữ A được mã hóa bởi số 001, chữ B là số 002 v.v. Vậy :
Dòng 15:
Trong quá trình học tập nâng cao môn Sinh học phân tử ở bậc phổ thông, nên phân biệt (dù không bắt buộc) các khái niệm : mã gốc, mã có nghĩa, mã phiên và đối mã.
- '''Mã gốc''' là mã di truyền trên mạch gen được dùng làm khuôn để tổng hợp ra mARN.
- '''Mã có nghĩa''' là bộ ba trên mạch gen bổ sung với mạch mã gốc.
- '''Mã phiên''' là mã của mARN, phân bố trên chuỗi mARN ([[ARN thông tin]]).
Dòng 25:
[[Tập tin:Bộ ba mã DT 1.png|nhỏ]]
===Lược sử nghiên cứu===
Sau khi mô hình ADN được khám phá và công bố năm 1953,
Giả thuyết này được tóm tắt bằng sơ đồ mà hiện nay, học sinh trung học nào cũng biết, nói lên vai trò trung tâm trong cơ chế di truyền là thuộc về ADN, mà không phải là prô-tê-in như trước đó khẳng định :
ADN → ARN → Prô-tê-in → Tính trạng.
Sơ đồ này được xem là một trong những nền tảng của [[luận thuyết trung tâm]] (central dogma) nói trên.
Theo chính Cơ-ric, thì George Gamow là người đầu tiên giả định mỗi đơn vị mã di truyền (codon) là một bộ ba (triplet).
Các khám phá tiếp theo về cấu trúc và chức năng của tARN ([[ARN vận chuyển]]) chủ yếu do công lao của Alex Rich và Don Caspar (ở Boston), của Jacques Fresco và cộng sự (ở Princeton) và một nhóm các nhà khoa học Anh ở King's College
Như vậy, theo sơ đồ của [[luận thuyết trung tâm]], ADN mang mã gốc sẽ được chuyển đổi thành mã phiên của [[ARN thông tin]], rồi mã phiên này được [[ARN vận chuyển]] có đối mã mà giải mã này thành a-xit a-min tương ứng trong quá trình [[dịch mã]], từ đó tính trạng hình thành.
==Tóm tắt==
* Trong Di truyền học hiện đại, mỗi '''đơn vị mã''' gọi là '''codon''' (phiên tiếng Việt : kêy-đon, phiên âm Quốc tế : /ˈkəʊdɒn/).<ref>Dictionary https://en.oxforddictionaries.com/definition/codon</ref>
* Mỗi codon (đơn vị mã) di truyền gồm một '''triplet''' (phiên tiếng Việt :tơ-ri-pơ-lit, phiên âm Quốc tế : /ˈtrɪplɪt/), tức là '''bộ ba''' nu-clê-ô-tit liền nhau trên phân tử a-xit nu-clê-ic mang thông tin về dịch mã.
* Nếu bộ ba này ở ADN hoặc ở mạch mARN thì gọi là đơn vị mã (codon) hoặc là bộ ba (triplet), không phân biệt nhau. Nhưng nếu bộ ba này ở tARN giúp nó giải mã thì gọi là '''đối mã''' (anticodon, phiên âm tiếng Việt : an-ti-kêy-đon, phiên âm Quốc tế : /ˌantɪˈkəʊdɒn/).<ref>Dictionary https://en.oxforddictionaries.com/definition/anticodon</ref>
==Tham khảo==
|