Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Súng trường tấn công”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
nKhông có tóm lược sửa đổi Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
||
Dòng 2:
[[Tập tin:AK-47 type II Part DM-ST-89-01131.jpg|300px|thumb|Khẩu [[Súng trường tự động Kalashnikov|AK-47]] của Liên Xô và Nga]]
[[Tập tin:M16A1 brimob.jpg|300px|thumb|right|Khẩu [[M16]] của Hoa Kỳ]]
'''Súng trường
Điểm để phân loại giữa súng trường
Dòng súng trường [[AK-47|Kalashnikov]] là ví dụ điển hình nhất cho loại này khi nó được sử dụng bởi rất nhiều nước trên khắp thế giới tiếp đó là [[M16]], [[Heckler & Koch G36|G36]], [[FN F2000]] và [[Steyr AUG]].{{fact}}
Dòng 18:
=== Những năm 1900-1930 ===
[[Tập tin:Fedorov avtomat.jpg|300px|thumb|right|Khẩu Fedorov Avtomat]]
Amerigo [[Cei-Rigotti]] đã thiết kế một loại súng có khả năng của một khẩu súng trường
Trong [[chiến tranh thế giới thứ nhất]] khẩu [[LMG]] [[Chauchat]] của [[Pháp]] đã cho ý tưởng về cấu trúc của súng trường
[[Ribeyrolle 1918]] có thể là một trong các loại súng đầu tiên được chế tạo tập hợp các tiêu chuẩn của súng trường
Khẩu súng máy [[M1918 Browning]] của Hoa Kỳ là kết quả của việc sao chép khẩu Chauchat kết hợp với một số thiết kế lại đáng tin cậy hơn nhưng nó không được giới thiệu hay đưa vào sử dụng trước khi kết thúc thế chiến thứ nhất. Sau đó nó được trang bị một nòng nặng hơn và gắn thêm chân chống chữ V khiến nó giống như loại LMG hiện đại, nhưng nó cũng đã giúp tạo ra các học thuyết quân sự mới cho một loại súng trường tự động. Các mẫu khác nhau của loại súng này được sử dụng rộng rãi bởi quân đội Hoa Kỳ và các nước khác cho đến những năm 1960.
Trong chiến tranh thế giới thứ nhất các loại [[súng tiểu liên]] cũng đã xuất hiện và tham gia chiến đấu như [[Villar-Perosa (súng tiểu liên)|Villar Perosa]], [[Beretta M1918]] và [[MP18]]. Loại súng này có rất nhiều điểm giống với các khẩu súng trường
=== Những năm 1930 ===
Việc phát triển các loại đạn súng trường có độ dài trung bình là do yêu cầu về tính năng của đạn dược. Súng tiểu liên sử dụng đạn súng ngắn nên tầm bắn hiệu quả của loại súng này khá ngắn. Ngược lại những viên đạn súng trường cỡ lớn có thể bắn với tầm chính xác khá xa nhưng lại quá mạnh so với các loại súng cùng thời nên khó bắn liên tiếp, muốn bắn được chúng thì phải sử dụng những loại súng lớn, cồng kềnh, nặng và khó kiểm soát khi bắn vì độ giật rất cao. Chi phí thiết kế và sản xuất loại súng này cũng khá cao. Trong một nỗ lực để sử dụng được loại đạn độ dài trung bình cho một khẩu súng trường
Năm 1942 Hoa Kỳ đã giới thiệu khẩu [[M1 carbine]] sử dụng loại đạn [[7,62×33mm]] (.30 Carbine). Mặc dù ban đầu có dự định là sẽ thêm khả năng chọn chế độ bắn cho M1 nhưng kế hoạch này đã không thể thực hiện được cho phiên bản đầu của loại súng này. Sau chiến tranh khả năng chọn chế độ bắn mới được thêm vào cho hai phiên bản M2 và M3. Loại súng này có tầm bắn xa và chính xác hơn nhiều so với các khẩu tiểu liên nhưng không mạnh bằng những khẩu súng trường sử dụng cỡ đạn lớn. Vì một lý do tình cờ loại đạn 7.62x33mm lại có độ dài giống với [[7.92x33mm Kurz]] loại đạn đã được sử dụng trong các khẩu súng trường
Ban đầu ý tưởng về những khẩu carbine là một loại súng rẻ tiền, nhẹ dùng để cung cấp cho lực lượng hậu cần (những người lái xe tải, các đội lái xe tăng, đầu bếp...) nhưng kết quả là nó còn mắc hơn cả khẩu [[M1911 (Súng)|M1911]] hay [[M1 Garand]]. Dòng M1 đã được nhận thấy rằng nó rất hợp cho việc chiến đấu tầm gần và nó đã được sử dụng nhiều cho việc này sau đó. Các khẩu M1 carbine đã được quân đội Hoa Kỳ sử dụng cho đến những năm 1960 khi nó bị thay thế bằng khẩu [[M16]], nhưng nó vẫn được sử dụng trong một cách hạn chế trong việc huấn luyện Hải quân, Không quân, cảnh sát biển cũng như các ngành khác cho đến những năm 1980.
Những năm 1930 cũng là lúc mà Đức đã tiến hành chương trình ''Maschinenkarabiner'' để chế tạo ra các khẩu súng trường
=== Những năm 1940 đầu những năm 1950 ===
[[Tập tin:súng trường tấn công 44.jpg|300px|thumb|right|Khẩu súng trường
Đức với [[Hòa ước Versailles|Hiệp ước Versailles]] đã phải giới hạn lực lượng quân đội chuyên nghiệp của mình xuống khoảng còn 100.000 quân tập hợp nhiều binh lính phục vụ lâu năm trong quân đội cũng như bị cấm sở hữu xe tăng hay máy bay quân sự. Điều này đã thúc đẩy ý chí để tạo ra các loại vũ khí có chất lượng cao công đoạn chế tạo và chi phí thấp với hiệu quả tác chiến cao theo phương châm chất lượng bù số lượng. Các học thuyết quân sự đã ra đời cùng và dựa theo khả năng tác chiến của [[universal maschinengewehr]]. Universal maschinengewehr có tốc độ bắn cao đòi hỏi ít người để có thể tác chiến hiệu quả với tầm bắn xa có thể cố thủ một vùng rộng lớn. Quân địch gần như không có thời gian để có thể tránh các loạt đạn liên tiếp và nhanh nhắm vào mình để tìm chỗ ẩn nấp. Việc chiến đấu tầm gần sẽ được giao cho các đội quân được trang bị các súng tiểu liên với độ tin cậy, tốc độ bắn rất cao họ có thể bắn mà không cần nhắm. Chiến thuật này có tên là "[[Hutier]]" đây là kết tinh của các chiến thuật mà Đức đã đúc kết được từ chiến tranh thế giới thứ nhất.
Đức cũng giống như nhiều nước khác đã nắm bắt được nhu cầu về các loại súng trường dành cho bộ binh từ thế chiến thứ nhất, cũng như các nhà máy của họ ché tạo ra nhiều loại đạn khác nhau không đúng với tiêu chuẩn cũ nên cũng chẳng có lý do gì để giữ lại các khẩu súng trường cũ. Loại đạn mới là 7.92x30 mm Kurz đã được nghiên cứu và thử nghiệm, kết quả là loại đạn [[7.92x33mm Kurz]] đã ra đời năm 1941 và sau đó nó được nâng cấp thêm vài lần nữa. Loại đạn 7.92x33mm của Đức chỉ đơn giàn là trùng kích cỡ với loại 7.62x33mm của Hoa Kỳ còn ngoài ra không có bất cứ sự liên quan nào kể cả các vấn đề nảy sinh hay cách hoạt động. Loại đạn 7.92x33mm sử dụng đầu đạn của loại đạn [[7.92x57mm Mauser]] với cùng đường kính.
Vào năm 1942 hãng sản xuất vũ khí [[Walther]] đã chế tạo khẩu Maschinenkarabiner với tên MKb42(W). Cùng năm đó [[Hugo Schmeisser]] cũng đã thiết kế khẩu MKb42(H). Rheinmetall-Borsig cũng đã giới thiệu khẩu Fallschirmjägergewehr 42 ([[FG42]]) của mình nhưng nó hơi khác với các loại súng trường
Khi gần kết thúc chiến tranh [[Mikhail Timofeyevich Kalashnikov|Mikhail Kalashnikov]] đã thiết kế khẩu [[AK-47]] nó có cách hoạt động rất khác với StG44 của Đức. AK-47 sử dụng loại đạn [[7,62×39mm]] vốn được [[Simonov]] thiết kế năm 1945 và sản xuất rất nhiều cho các khẩu [[CKC]]. Loại súng này đã trở nên rất nổi tiếng và phổ biến vì độ đáng tin cậy của nó. Có rất nhiều tranh cãi nói rằng Kalashnikov đã lấy nền tảng từ khẩu StG44 để phát triển AK-47 nhưng nhiều nhà sử học đã chỉ ra rằng Kalashnikov đã tiến hành thiết kế loại súng này từ năm 1943 khi ông bị ấn tượng về những khẩu súng tiểu liên có thể bắn chính xác vì tốc độ bắn nhanh mà không cần tốn thời gian nhắm.
Mauser cũng đã phát triển vài mẫu [[súng trường tấn công 45|súng trường công kích 45]] ([[StG 45(M)]]). Bắt đầu với Gerät 06 sử dụng hệ thống [[nạp đạn bằng phản lực bắn có con lăn hãm]] một cơ chế có nguồn gốc từ hệ thống khóa bằng con lăn sử dụng trong súng máy [[Maschinengewehr 42|MG42]], nhưng với một nòng cố định cùng hệ thống trích khí. Khi chú ý đến tỷ lệ và số lượng máy móc của súng các nhà thiết kế đã quyết định bỏ hệ thống trích khí. Kết quả của việc phát triển này là khẩu Gerät 06(H) đã được Wehrmacht thông qua với tên StG45.
[[Tập tin:AME1.jpg|300px|thumb|right|Khẩu súng trường
Các kỹ thuật gia người Đức đã tiếp tục phát triển súng trường
=== Những năm 1950 đến 1960 ===
Sau khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai quân đội các nước đã nghiên cứu về những vấn đề đã xảy ra trong cuộc chiến cũng như cách chiến đấu. Vài thứ được tìm ra đã mang áp dụng ngay cho thiết kế các loại vũ khí. Hầu hết việc nghiên cứu cho thấy rằng thương vong do bắn nhau hầu hết xảy ra trong phạm vi hẹp. Vì thế tầm bắn xa và chính xác của những khẩu súng trường bình thường nói chính xác ra là lãng phí. Các việc nghiên cứu cũng thấy rằng việc nhắm bắn không phải là nhân tố chính gây ra thương vong. Mà trên thực tế lượng thương vong gây ra hầu hết bởi số lượng đạn được bắn ra. Các binh sĩ trang bị vũ khí tự động như súng tiểu liên hay súng trường
Trong khi các nghiên cứu đang được phân tích thì [[7,62×51mm|đạn 7,62×51mm]] đã được giới thiệu như loại đạn tiêu chuẩn của quân đội [[NATO]]. Nó có thể sát thương trong phạm vi 500m. Trong lúc đó Anh cũng đang phát triển loại đạn 7×43mm ([[.280 British]]) cho loại súng trường [[EM-2]] có thiết kế [[băng đạn gắn phía sau]]. Tuy nhiên do sức ép chính trị của Đảng Bảo thủ vốn đồng ý với việc thống nhất tiêu chuẩn với Liên Minh nên dự án đã phải dời lại vài năm trước khi được công bố. Tại Bỉ các công ty sản xuất vũ khí nổi tiếng tại đó như [[FN Herstal]] đã tiến hành thử nghiệm với các loại đạn của Đức như 7.92x33mm Kurzpatrone. Tuy nhiên NATO đã buộc họ phải sử dụng loại đạn theo tiêu chuẩn chung nên đã tạo ra khẩu [[FN FAL]], Thụy Sĩ đã giới thiệu khẩu [[SIG SG 510]] vẫn sử dụng loại đạn súng trường của Thụy Sĩ nhưng đồng thời cũng chế tạo khẩu SIG 510-4 sử dụng loại đạn [[7.62×51mm NATO]]. Bolivia và Chile đã thông qua khẩu SIG 510-4 như loại súng trường tiêu chuẩn của họ.
[[Tập tin:7.62x51 5.56x45.JPG|right|thumb|300px|7.62x51mm và 5.56x45mm của NATO]]
Với sự xuất hiện của loại đạn 7.62x51mm Hoa Kỳ đã tiến hành thiết kế khẩu [[M14]] với hầu hết các thiết kế là của khẩu [[M1 Garand]] sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Những thay đổi chính trong thiết kế là hộp đạn rời 20 viên cùng khả năng chọn chế độ bắn. khi các thử nghiệm ban đầu cho thấy sự hứa hẹn và các binh lính chuyên nghiệp đã chọn nó để sử dụng, tuy nhiên khả năng chọn chế độ bắn đã cho thấy nó không hiệu quả đối với những binh lính với kinh nghiệm trung bình. loại đạn 7.62m NATO này quá mạnh tạo ra một độ giật rất lớn khiến nó khó kiểm soát khi bắn ở chế độ tự động. Khi khẩu M14 được đưa vào sử dụng thì cũng là lúc [[Eugene Stoner]] tại [[ArmaLite]] đã phát triển một loại súng mới là [[AR-10]] vẫn dùng loại đạn 7.62mm NATO. Khi thử nghiệm khả năng loại súng của Stoner, quân đội đã ra sắc lệnh cuối cùng xem xét nghiêm túc việc phát triển loại đạn có chiều dài trung bình và loại đạn [[5,56×45mm NATO|5.56x45mm NATO]] đã được tạo ra. Stoner đã thu nhỏ loại súng đó lại cho phù hợp với loại đạn mới và đặc tên mới là [[AR-15]], mẫu mà cuối cùng được quân đội Hoa Kỳ sử dụng rộng rãi với tên là [[M16]]. Khẩu M16A1 được thấy sử dụng rộng rãi trong [[chiến tranh Việt Nam]] tuy nhiên do điều kiện môi trường nên nó thường xuyên bị kẹt đạn. Khẩu M16A2 được nâng cấp và cải tiến hơn đã được giới thiệu vào năm 1986 sử dụng loại đạn 5.56x45mm NATO do Bỉ nâng cấp với trọng lương 4,0 g lõi thép xuyên loại đạn này còn được biết với tên SS109 hay M855. Mẫu mới của M16 là khẩu [[M4 Carbine]].
Dòng 76:
Từ những năm 1990 các phụ kiện trang bị thêm cho súng được chú ý với sự xuất hiện nhiều các loại phụ kiện khác nhau được gắn trên các thanh răng. Điều này là do yêu cầu tăng tầm nhìn cũng như hiệu quả cho các lực lượng chống khủng bố, lược lượng phản ứng nhanh và lực lượng đặc nhiệm cũng như nhiều lực lượng khác muốn phát triển và nâng cấp các loại vũ khí cho riêng mình. Các phụ kiện có thể nói đến như đèn pin, nhắm laser, bộ phận [[ống giảm thanh|hãm thanh]], đèn hồng ngoại, hộp đạn tròn, báng súng gấp, cùng nhiều phụ kiện khác. Các phụ kiện này cũng có thể được sử dụng bởi dân thường.
Cùng với việc phát triển của các phụ kiện thì các súng trường
== So sánh các loại đạn của súng trường
Nguồn:<ref>{{chú thích web | url = http://world.guns.ru/ammunition/intermediate-cartridges-e.html | tiêu đề = Modern Firearms | author = | ngày = | ngày truy cập = 30 tháng 9 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref><ref>[http://world.guns.ru/ammunition/rifle-cartridges-e.html]</ref>
{| class="wikitable" style="text-align:center"
|