Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phan Huy Ích”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 3:
 
==Thân thế và học vấn==
Ông tên thật là '''Phan Công Huệ''', sinh ngày 12 tháng 12Chạp năm [[Canh Ngọ]] (tức [[9 tháng 1]] năm [[1751]]) ở làng [[Thu Hoạch]], huyện [[Thiên Lộc]], [[phủ Đức Quang]], [[trấn Nghệ An]], (nay thuộc xã Thạch Châu, huyện [[Thạch Hà]], tỉnh [[Hà Tĩnh]])<ref>Danh tướng Việt Nam - Tập 3 / Nguyễn Khắc Thuần.-H.: Giáo dục, 2005.</ref>. Do kiêng húy của Tuyên phi [[Đặng Thị Huệ]], về sau ông đổi tên là '''Huy Ích'''.
 
Ông là con trai đầu của [[Tiến sĩ]] [[Phan Huy Cận]] (hay Cẩn, về sau đổi thành Phan Huy Áng). Thuở nhỏ, ông sống và học tập tại làng Thu Hoạch, đến năm 20 tuổi, năm [[1771]], ông thi đỗ [[Giải nguyên]] tại trường thi [[trấn Nghệ An|Nghệ An]]. Trước đó, năm 1753, thân phụ ông là Phan Huy Cận cũng đỗ Giải nguyên tại trường [[thi Hương]] này.
Dòng 26:
Mùa hạ năm [[1802]], quân [[Nguyễn Ánh]] ra Bắc. Ông bị bắt cùng với [[Ngô Thì Nhậm]], Nguyễn Thế Lịch, cả ba đều bị đánh đòn trước [[Văn Miếu-Quốc Tử Giám|Văn Miếu]]. Năm 1814 ông về quê làng [[Thu Hoạch]] dạy học và sau đó lại ra [[Sài Sơn]] an dưỡng. Theo các nhà nghiên cứu, trong thời gian này, ông hoàn chỉnh bản dịch [[Chinh phụ ngâm]] (tác giả Đặng Trần Côn), mà người diễn Nôm đầu tiên là [[Đoàn Thị Điểm]].
 
Ông mất ngày 20 tháng 2Hai năm [[Nhâm Ngọ]] (tức [[13 tháng 3]] năm [[1822]]) tại quê nhà.
 
==Chú thích==