Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bia Vĩnh Lăng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 4:
''Giới thiệu
 
Lam Sơn Vĩnh Lăng Bi (Bia Vĩnh Lăng, Lam Sơn) là tấm bia thời Lê sơ ở Lăng Vua Lê Thái Tổ xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Văn bia do anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi soạn thảo vào năm Thuận Thiên thứ 6 (1433) ngay sau khi Vua Lê Lợi qua đời và được táng ở Vĩnh Lăng. Cũng như các bia khác thời Lê bia có trang điểm diềm chạm rồng và hoa văn sóng nước xung quanh. Bia viết trên một mặt, trán bia viết chữ kiểu triện, bài văn thân bia gồm 25 cột chữ viết chân. Cũng theo lệ thường, văn bia có lối viết sang cột giữa chừng và viết đài lên một hàng các chữ như “Thái, Đế, Tằng, Hoàng, Sắc”… để tỏ ý kính trọng. Nội dung văn bia Nguyễn Trãi thuật lại xuất xứ Vua Lê Lợi, quá trình khởi nghĩa Lam Sơn cho đến khi đánh tan quân Minh, giải phóng đất nước. Đây là một trong số các văn bia hiếm hoi do Nguyễn Trãi soạn, mô tả khá tỷ mỷ xuất xứ Lê Lợi đặc biệt thuật lại các diễn biến chính của khởi nghĩa Lam Sơn vốn chỉ được biết đến thông qua bài “Bình Ngô đại cáo” của Ông. Sau chiến thắng quân Minh uy thế của nước Đại Việt ta lúc đó rất cao, lãnh thổ được mở rộng qua việc sát nhập vùng Mường Lễ, Ai Lao (Khu vực vùng Thanh Hóa, Nghệ An giáp với Lào) và đặc biệt một số nước trong khu vực như Chiêm Thành, Xà Bà (Có lẽ là Java thuộc Indonesia ngày nay) đều sang cống nạp. Trong “Lam Sơn Vĩnh Lăng Bi” Nguyễn Trãi cho sử dụng lại các cụm từ quen thuộc như “dĩ nhược chế cường, dĩ quả địch chúng” (dùng yếu đánh mạnh, dùng ít địch nhiều) như trong bài cáo nổi tiếng “Bình Ngô đại cáo”. Bản dịch dưới đây do tác giả là Nguyễn Hữu Trung dịch dựa vào photo của bản rập tấm bia này tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.''
 
Bản dịch
Dòng 10:
Kính viết
 
Ngày 22 tháng 8 nhuận năm Quý Sửu , niện hiệu Thuận Thiên thứ 6 (1433) Thái tổ Cao Hoàng đế về chầu trời. Ngày 23 tháng 10 năm này được táng ở Vĩnh Lăng, Lam Sơn. Vua họ Lê, tên húy bên trái là “Hòa”, bên phải là “Đao” (Tức chữ Lợi). Cụ nội tên bên trái là “Ngôn”, phải là “Mỗi” (Tức chữ Hối) . Có một hôm cụ đi qua Lam Sơn, trông thấy một đàn chim bay lượn quanh dưới chân Lam Sơn, trông giống như đám đông người đang tụ họp, do vậy biết đây là vùng đất tốt. Nhân đó Cụ bèn về nhà đưa cả gia đình đến an cư ở đấy. Được 3 năm thì gây dựng nên sản nghiệp, con cháu ngày càng đông đúc, tôi tớ trong nhà ngày một nhiều khai khẩn đất đai, xây dựng cơ đồ ngày càng phồn thịnh ở đấy. Bởi có thế lực nên được phong làm tù trưởng đứng đầu ở một phương. Ông nội Vua tên húy trái là “Xa”, phải là “Can” (Tức chữ Hiên) thừa tự gia nghiệp, kế thừa chí tổ tiên gây dựng cơ ngơi đông hơn ngàn người. Bà nội Vua họ Nguyễn, là người rất đức hạnh, hiền thục sinh được 2 con trai: con trưởng là Tòng; con thứ tên bên trái là “Nhật”, bên phải là “Quảng”(Tức chữ Khoáng) tức là thân sinh của Vua vậy. Ông là người vui tính, thảo hiền, phúc đức, thích làm điều lạc thiện, hay nuôi dưỡng tân khách trong nhà. Dân ở vùng lân cận được coi như một nhà cho nên không ai lại không cảm cái ân đức để nốiphục liềncái mạchnghĩa khí nghiệpấy vậy. Mẹ của Vua họ Trịnh, tên húy trên là “Thảo”, dưới là “Thương” (Tức chữ Thương) là người chuyên cần việc nữ công khuê phòng, sinh được 3 con trai: Con đầu là Học; con giữa là Trừ; con cuối tức là Vua ta vậy. Con đầu kế thừa sự nghiệp ông cha, không may đoản mệnh. Nhà Vua kế thừa sự nghiệp của ông cha rất cẩn trọng. Tuy gặp thời đại loạn mà ý chí vẫn kiên cường, ẩn dấu tông tích trong rừng núi, lấy cày bừa, cấy lúa mà lập nghiệp. Do căm phẫn quân giặc tàn bạo ức hiếp nên càng chuyên tâm vào đọc sách thao lược, đem hết gia tư trong nhà để hậu đãi tân khách.
 
Năm Mậu Tuất (1418) khởi nghĩa dấy binh ở đồn Lạc Thủy. Trước sau đánh hơn 10 trận đều dùng quân mai phục, xuất kỳ bất ý, tránh chỗ mạnh đánh vào chỗ yếu, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chế mạnh. Năm Bính Ngọ (1426) đánh trận Tốt Động thắng lớn, bèn tiến về bao vây Đông Đô. Năm Đinh Mùi (1427) viện binh của giặc do An Viễn hầu Liễu Thăng dẫn 10 vạn quân từ Quảng Tây tiến sang; Kiềm Quốc công Mộc Thạnh dẫn 5 vạn quân từ Vân Nam tiến vào. Một trận chiến diễn ra ở Chi Lăng: Liễu Thăng bị mất đầu; chém bọn giặc vài vạn thủ cấp; bắt sống bọn tướng giặc Hoàng Phúc, Thôi Tụ hơn 300 tên; quân dưới trướng hơn 3 vạn tên bị bắt. Liền đem sắc mệnh, binh phù của Liễu Thăng cho quân Vân Nam xem. Mộc Thạnh nhìn thấy hết thảy bọn chúng đều tiêu đởm, tan tác, bị chém chết và bắt sống không thể kể xiết. Lúc đó bọn trấn thủ thành Đông Quan là Thành Sơn hầu Vương Thông vốn trước đã cùng quân ta giảng hòa nhưng chưa xong, đến lúc này mới xin được minh thề ở trên sông Nhị Hà. Các xứ thành trì trấn thủ đều mở cửa ra hàng. Phàm những quân giặc bị bắt cho đến các thành ra hàng cả thảy hơn 10 vạn tên đều được phóng thích. Đường thủy cấp cho hơn 500 chiếc thuyền, đường bộ cấp cho lương thảo, ngựa tốt. Răn giới cho quân sỹ không được mảy may xâm phạm. Hai nước từ đó thông hảo, Bắc Nam yên ổn. Xứ Mường Lễ , Ai Lao đều nhập vào bản đồ nước ta. Các nước Chiêm Thành Xà Bà đều cho tàu thuyền sang cống nạp.
 
Vua thức khuya dậy sớm, trong 6 năm trong nước bình yên cho đến khi băng hà