Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quân phiếu chiến tranh Nhật Bản”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tạo với bản dịch của trang “Japanese invasion money
 
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:Bond_0264.jpg|nhỏ|300x300px| Đường phố ngập tràn tiền quân phiếu chiến tranh Nhật Bản, [[Yangon|Rangoon]], 1945. ]]
'''Quân phiếu chiến tranh Nhật Bản''', tên chính thức là '''Đại Đông Á Chiến tranh Quân phiếu''' ( {{Ja iconLang-ja|大東亜戦争軍票}} , ''ĐạiDai để-A Sensō gunpyō Senso,'' " ), còn gọi là '''Tiền chei61mchiếm đóng Nhật Bản''', là một loại chi phiếu thay tiền của lực[[Quân lượngđội quânĐế sựquốc Nhật Bản|lực tạilượng cácquân quốcsự giaNhật và vùng lãnh thổ chiếm đóng như một sựBản]], thay thế cho đồngcác loại tiền nội tệ sautại các cuộcquốc xâmgia lược trongvùng lãnh thổ bị [[ChiếnNhật tranhBản]] thếchiếm giớiđóng thứtrong hai|[[Thế chiến thứ hai]] . VàoKhi thángchiến 2tranh nămkết 1942thúc, tạicác [[Nhậtloại Bản]],tiền luậtlưu pháphành đãdưới đượcdanh thôngnghĩa quaNhật việcBản thànhngay lập '''Ngântức hàngtrở Tàithành chínhnhững thờitờ chiến'''giấy lộn. '''NgânChúng hànggồm Phátcác triểnloại phươntiền Nam'''chiếm .đóng Cả hai tổ chức nàyđược phát hành trái phiếu[[Philippines]], để[[Myanmar|Burma]] gây(nay quỹ. Trước đâyMyanmar), họ[[Mã đãLai chothuộc vayAnh|Malaya]], tiền[[Bắc chủBorneo]] yếu cho[[Vương cácquốc ngànhSarawak|Sarawak]] công(nay nghiệpthuộc quân[[Malaysia]]), sự[[Singapore]], nhưng[[Brunei]], cũng[[Đông choẤn một loạtLan]] các(nay liên doanhIndonesia) khác, baomột gồmsố nhàkhu máyvực thủythuộc điện,[[Châu côngĐại tyDương]] điện([[New lực,Guinea]] đóng tàu[[Quần đảo Solomon]]dầu[[Quần khíđảo Gilbert]]). Các<ref>Wong dịchHon vụSum, tàiThe chínhJapanese cungOccupation cấpof thứMalaya hai(Singapore) trongand khuits vựcCurrency chiếm(Singapore, đóng1996, của</ref> quânMột độilượng Nhậtlớn Bản,tiền tệ tráiđã phiếuthu củađược Ngânbởi hàngcác Phátlực triểnlượng phươngđồng Namminh được sửthường dụngdân nhưvào mộtcuối quâncuộc phiếuchiến; ''[[dephần facto]]''.nhiều Vàođược thánglưu 12giữ nămlàm 1942quà lưu niệm thời chiến, số hiện chưanằm thanhtrong toáncác củabộ Ngânsưu hàngtập Phát triểnnhân Phương Nambảo đứngtàng. <ref>For mứcexample, hơnthere 470are triệu;over Tháng200 3notes nămin 1945,the hơnBritish 13Museum tỷcollection. <ref>See Nicholas Lua, [https://archivechinesemoneymatters.iswordpress.com/201208021824442018/http:05/08/www.imes.boj.or.jpjapanese-occupation-money-and-the-battle-of-balikpapan/cm/english_htmls/feature_gra3-6.htm Modern Japanese Financialoccupation Historymoney asand Seenthe ThroughBattle Itsof CurrencyBalikpapan] - 3.6retrieved The8 WartimeMay Economic System]2018</ref>
 
==Lược sử==
Sau khi [[Chiến tranh Trung-Nhật|gây chiến với Trung Quốc]], đến năm 1940, người Nhật đã mở rộng phạm vi hoạt động quân sự của họ ở [[châu Á]] và đã phát triển đỉnh điểm với [[Trận Trân Châu Cảng|cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng]] cuối năm 1941. Nhật Bản xâm chiếm nhiều nước châu Á, chiếm được nhiều vùng lãnh thổ rộng lớn và thiết lập chính quyền quân sự.
 
BắtSau đầukhi với[[Chiến việcdịch Philippines (1941-1942)|chiếm đóng Philippines]], quân đội Nhật đã tịch thu tất cả các loại tiền bản vị mạnh, cả ở cấp độnhà liênnước bang vàlẫn cá nhân người dân, thay thế chúng bằng các chi phiếu được in tại địa phương bảo đảm bằng sức mạnh quân sự. Tất cả các chi phiếu đều mang danh nghĩa của chính phủ Đại đếĐế quốc Nhật Bản, và mộtchúng số chi phiếiđều được hứa đảm bảo thanh toán cho người sở hữu nó. Người Philippines địa phương thường gọi loại quân phiếu này là tiền chuột Mickey, <ref name="Slabaugh">Arlie Slabaugh, Japanese Invasion Money by Hewitt’s Numismatic Information Series (Chicago Press, 1967)</ref> nó vô giá trị sau khi người Nhật thất trận, và hàng tấn loại "tiền" này đã bị đốt cháy. Quân đội Nhật Bản được lệnh phá hủy hồ sơ ngân hàng và bất kỳ loại tiền tệ nào còn lại trước khi bị bắt.
 
Tháng 2 năm 1942, [[chính phủ Nhật Bản]] cho thành lập '''Ngân hàng Tài chính thời chiến''' và '''Ngân hàng Phát triển phương Nam'''. Cả hai tổ chức này đều được quyền phát hành trái phiếu để gây quỹ. Hoạt động chủ yếu của 2 tổ chức tài chính này bao gồm cho vay tài chính đối với các tổ hợp công nghiệp quân sự, mở rộng ra một số tổ hợp công nghiệp khác như nhà máy thủy điện, công ty điện lực, đóng tàu và dầu khí... Ngoài ra, một dịch vụ tài chính quan trọng thứ hai là phát hành các chi phiếu trong các khu vực quân đội Nhật Bản chiếm đóng, và trái phiếu của Ngân hàng Phát triển phương Nam được sử dụng như một quân phiếu ''[[de facto]]''. Vào tháng 12 năm 1942, số dư chưa thanh toán của Ngân hàng Phát triển Phương Nam đứng ở mức hơn 470 triệu; đến tháng 3 năm 1945, là hơn 13 tỷ.<ref>[https://archive.is/20120802182444/http://www.imes.boj.or.jp/cm/english_htmls/feature_gra3-6.htm Modern Japanese Financial History as Seen Through Its Currency - 3.6 The Wartime Economic System]</ref>
Vào cuối Thế chiến thứ hai, khi chiến tranh kết thúc, các loại tiền lưu hành mang danh nghĩa Nhật Bản ngay lập tức trở thành những tờ giấy lộn. Chúng gồm các loại tiền được phát hành bao gồm [[Philippines]], [[Myanmar|Burma]] (nay là Myanmar), [[Mã Lai thuộc Anh|Malaya]], [[Bắc Borneo|North Borneo]] và [[Vương quốc Sarawak|Sarawak]] (nay là [[Malaysia]] ), [[Singapore]], [[Brunei]], [[Đông Ấn Hà Lan|Dutch East Indies]] (nay là Indonesia) và một số khu vực thuộc [[Châu Đại Dương]] ( [[New Guinea]] và [[Quần đảo Solomon|Solomon]] và [[Quần đảo Gilbert|Gilbert đảo]] ). <ref>Wong Hon Sum, The Japanese Occupation of Malaya (Singapore) and its Currency (Singapore, 1996, </ref> Một lượng lớn tiền tệ đã thu được bởi các lực lượng đồng minh và thường dân vào cuối cuộc chiến; phần nhiều được lưu giữ làm quà lưu niệm thời chiến, và hiện nằm trong các bộ sưu tập tư nhân và bảo tàng. <ref>For example, there are over 200 notes in the British Museum collection. See Nicholas Lua, [https://chinesemoneymatters.wordpress.com/2018/05/08/japanese-occupation-money-and-the-battle-of-balikpapan/ Japanese occupation money and the Battle of Balikpapan] - retrieved 8 May 2018</ref>
 
Trên thực tế, các quân phiếu này không được bảo đảm bằng chế độ bản vị mà được bảo đảm bằng sức mạnh quân sự. Vì vậy giá trị của chúng trồi sụt theo mức độ thắng lợi của quân Nhật Bản trên chiến trường. Khi Nhật Bản đi vào con đường thất bại, nhằm giữ được khả năng mua sắm tại địa phương, các quân phiếu được in ấn phát hành vô vạ, dẫn đến lạm phát tăng khủng khiếp dẫn đến sự mất giá của các quân phiếu, gây thảm họa kinh tế tại các vùng lãnh thổ Nhật Bản chiếm đóng. Bên cạnh đó, do tác động của lạm phát, người dân tại các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng có xu hướng cất trữ hàng hóa để trao đổi, và chính phủ quân sự Nhật Bản luôn dùng các biện pháp vũ lực để ép buộc người dân phải bán hàng để đổi lấy các quân phiếu ngày càng vô dụng. Các yếu tố này càng làm trầm trọng hơn mối quan hệ giữa người Nhật và dân địa phương, làm tăng sự phản kháng, dẫn đến sự thất trận nhanh chóng của người Nhật trên các vùng lãnh thổ mà họ chiếm đóng.
== Philippines ==
 
Vào cuối Thế chiến, quân Nhật liên tục thất bại trên chiến trường, lần lượt đánh mất các vùng lãnh thổ chiếm đóng. Tuy nhiên, trước khi thất trận, quân đội Nhật thực hiện hành động cuối cùng phá hủy nền kinh tế tại các vùng lãnh thổ chiếm đóng. Họ được lệnh phá hủy tất cả các hồ sơ ngân hàng và bất kỳ loại tiền tệ nào còn lại trước khi đầu hàng. Các loại tiền quân phiếu cũng trở nên hoàn toàn vô giá trị sau khi người Nhật thất trận, và hàng tấn loại "tiền" này đã bị đốt cháy.
 
ChoSau chiến tranh, một số tổ chức dân sự được thành lập với mục đích yêu cầu chính phủ Nhật Bản phải chịu trách nhiệm bồi thường cho các quân phiếu chiến tranh tại các vùng lãnh thổ chiếm đóng trước đây. Nhiều cuộc chiến pháp lý ở tòa án chống lại Nhật Bản đã nổ ra cho đến gần đây với các vụ kiện lên tòa án cao nhất của Nhật Bản. Tuy nhiên, cho đến nay, không có một cá nhân nào được bồi hoàn tiền chiếm đóng của Nhật Bản. Theo [[Hiệp ước San Francisco]] ký tháng 9 năm 1951, Nhật Bản đã thực hiện bồi thường theo cấp độ quốc gia, không phải cá nhân. Một lượng lớn tiền chiếm đóng của Nhật Bản vẫn tồn tại và hầu hết các quân phiếu này có thể được mua bởi các nhà sưu tập với giá rẻ.
 
==Các loại quân phiếu chiến tranh==
=== Philippines ===
[[Tập tin:PHI-114-Japanese_Government_(Philippines)-500_Pesos_(1944).jpg|phải|nhỏ| Tiền chiếm đóng của Nhật Bản - Philippines 500 peso ]]
Vào ngày 10 tháng 12 năm 1941, quân Nhật đổ bộ vào [[Luzon]] . Người Nhật chiếm [[Manila]] vào ngày 2 tháng 1 năm 1942 và trong quá trình đó đã thu được hơn 20,5 triệu đô la tiền mặt của Hoa Kỳ và tiền địa phương và một lượng ngoại tệ và vàng thỏi không xác định . Người Nhật đã sử dụng loại tiền bản vị mạnh này ở nước ngoài để mua nguyên liệu thô, gạo và vũ khí để cung cấp nhiên liệu và cung cấp cho cỗ máy chiến tranh của mình . Thay vào đó, người Nhật đã phát hành một loạt các [[Tiền định danh|loại tiền tệ định danh]] . Người Philippines địa phương thường gọi loại quân phiếu này là tiền chuột Mickey, <ref name="Slabaugh">Arlie Slabaugh, Japanese Invasion Money by Hewitt’s Numismatic Information Series (Chicago Press, 1967)</ref>

Đợt phát hành đầu tiên vào năm 1942 bao gồm các mệnh giá 1, 5, 10 và 50 centavos và 1, 5 và 10 peso. Năm tiếp theo, tiếp tục phát hành các phiên bản khác của các loại tiền 1, 5 và 10 peso, đến năm 1944 phát hành tiền 100 peso và rồi 500 peso. Gần cuối cuộc chiến năm 1945, người Nhật đã phát hành một tờ tiền 1.000 peso. Các quân phiếu này đã được hoàn thành ở Manila ngay trước khi quân đội Hoa Kỳ vào thành phố vào ngày 3 tháng 2 năm 1945 và người Nhật đã in tờ tiền 1.000 peso khi họ đang rút lui từ Manila đến Baguio. Khi đó, người Nhật đã rơi vào thế bị động và thiếu nguồn cung cấp, họ đã phải pha loãng mực máy in nhằm có thể nâng được số lượng in . <ref name="Slabaugh">Arlie Slabaugh, Japanese Invasion Money by Hewitt’s Numismatic Information Series (Chicago Press, 1967)</ref> {{Clear}}
 
=== Malaya, Singapore, Bắc Borneo, Sarawak và Brunei ===
[[Tập tin:One_thousand_dollar_note_issued_by_the_Japanese_Government_during_the_occupation_of_Malaya,_North_Borneo,_Sarawak_and_Brunei_(1944).jpg|phải|nhỏ| Tiền chiếm đóng của Nhật Bản phát hành tại Malaya. ]]
Người Nhật bắt đầu cuộc tấn công vào [[Mã Lai thuộc Anh|Malaya thuộc Anh]] cùng ngày với [[Trân Châu Cảng]] . Người Nhật tiến vào Malaya trên đất liền từ phía bắc và căn cứ kiên cố của [[Singapore]] sụp đổ vào ngày 15 tháng 2 năm 1942 và được người Nhật giữ lại với Malaya cho đến tháng 8 năm 1945. Quân phiếu của Malaysia được tính bằng đô la (straits hoặc đô la Malaysia) và do đó, thường bị nhầm lẫn, được cho là tiền chiếm đóng của Hoa Kỳ. Năm 1942, Nhật Bản đã phát hành loại tiền giấy có giá trị 1, 5, 10 và 50 xu và 1, 5 và 10 đô la. Các quân phiếu 1, 5 và 10 đô la ban đầu có số sê-ri; nhưng về sau chúng đã bị bỏ qua. Năm 1944, lạm phát đã dẫn đến việc phát hành tờ 100 đô la. Năm 1945, một tờ tiền thay thế 100 đô la đã được phát hành cũng như một tờ tiền siêu lạm phát 1.000. Loạt quân phiếu năm 1942, bao gồm 50c và 1, 5, 10 và 100 đô la 1944/45 đều mang thông điệp "[Chính phủ Nhật Bản] đảm bảo thanh toán cho người mang theo". Quân phiếu thay thế 100 đô la năm 1944 không còn chứa thông điệp này.
Hàng 20 ⟶ 30:
Tên MALAYSIA đã được sử dụng trên một mẫu tiền xu năm 1942. Tên của quốc gia này không được thay đổi chính thức từ 'Malaya' thành 'Malaysia' cho đến ngày 16 tháng 9 năm 1963. Tuy nhiên, tên sau này đã được sử dụng phổ biến từ thế kỷ 19, và Bộ Tài chính Osaka tại Nhật Bản đã xác minh rằng đồng tiền mẫu này đã được đúc tại Osaka Mint, và tên MALAYSIA là tên tiếng Nhật của khu vực đó, tại thời điểm đó <ref>[http://davidklinger.blogspot.com/2006/03/japanese-occupation-pattern-coin.html Klinger's Place: Japanese Occupation Pattern Coin]{{Liên kết hỏng|date=May 2017}}</ref> {{Clear}}
 
=== Miến Điện ===
[[Tập tin:BUR-16-Japanese_occupation_Burma-10_rupees_(1942-44).jpg|phải|nhỏ| 10 Rupee, Tiền chiếm đóng của Nhật Bản - Miến Điện ]]
Người Nhật xâm chiếm Miến Điện vào tháng 1 năm 1942. Họ đã chinh phục [[Mandalay]] vào ngày 21 tháng 5 năm 1942 buộc người Anh phải rút lui qua [[Ấn Độ]] . Người Nhật chiếm giữ Miến Điện cho đến chiến dịch Đồng minh thứ hai năm 1944; mặc dù một cuộc đầu hàng chính thức đã không diễn ra cho đến tháng 8 năm 1945. Năm 1942, Nhật Bản đã phát hành loại tiền giấy có giá trị 1, 5 và 10 xu và,, 1, 5 và 10 Rupee.
Hàng 26 ⟶ 36:
Năm 1943, người Nhật đã hỗ trợ cho tiến sĩ Ba Maw, một người ủng hộ phong trào tự trị của người Miến Điện, và đưa ông trở thành người đứng đầu chính phủ bù nhìn. Từ năm 1943 trở đi, Nhật Bản đã phát hành loại tiền giấy theo tỷ lệ 1, 5 và 10 Rupee với một tờ 100 Rupee vào năm 1944. Các ký tự tiếng Nhật trong khung chữ nhật ở dưới cùng của mỗi tờ quân phiếu ghi chú "Chính phủ Đại đế quốc Nhật Bản" và nội dung của con dấu ở phía dưới bên phải của quân phiếu có biểu tượng Nhật Bản cho Bộ trưởng Bộ Tài chính. {{Clear}}
 
=== Hà Lan Đông ẤnIndonesia ===
[[Tập tin:NI-125c-Netherlands_Indies-Japanese_Occupation-10_Gulden_(1942).jpg|nhỏ| Hà Lan Đông Ấn - Tiền chiếm đóng Nhật Bản-10 Gulden (1942) ]]
Sau khi Singapore sụp đổ vào tháng 2 năm 1942, người Nhật đã tấn công Ấn Độ Hà Lan và xâm chiếm thành công vào ngày 9 tháng 3 năm 1942, chiếm đóng vùng này cho đến khi đầu hàng vào tháng 8 năm 1945. Năm 1942, Nhật Bản đã phát hành loại tiền giấy theo tỷ lệ 1, 5 và 10 xu và, 1, 5 và 10 ghi chú Gulden. Điều đặc biệt là các quân phiếu này được in hoàn toàn bằng tiếng Hà Lan. Các giá trị là Een (1), Vijf (5) và Tien (10) xu và Guldens. Tất cả các quân phiếu đều mang dòng chữ “De Japansche Regeering Betaalt Aan Toonder” hoặc “The Japanese Government Promise To Pay The Bearer On Demand”. Các mệnh giá 100 và 1000 Roepiah đã được phát hành vào năm 1944, với dòng chữ phiên âm tiếng Indonesia "Pemerintah Dai Nippon" (Chính phủ Nhật Bản). Một loạt quân phiếu bổ sung, với các mệnh giá 1/2, 1, 5, 10 và 100 Roepiah, cũng được ban hành vào năm 1944 với dòng chữ phiên âm tiếng Nhật Bản "Dai Nippon Teikoku Seiku" (Chính phủ Đại đế quốc Nhật Bản). {{Clear}}
 
=== Châu Đại Dương ===
{{Css Image Crop|Image=OCE-3a-Oceania-Japanese Occupation-10 Shillings ND (1942).jpg|bSize=220|cWidth=220|cHeight=108|oTop=0|oLeft=0|Location=|Description=Oceania-Japanese invasion- 10 Shillings ND (1942)}} Ở Châu Đại Dương, tiền chiếm đóng được phát hành để sử dụng ở New Guinea thuộc Anh, Quần đảo Solomon và Gilbert và các tiền đồn đảo nhỏ khác. Những hòn đảo này đã bị bắt để bảo vệ các hòn đảo trong Khối thịnh vượng chung. Năm 1942, người Nhật đã phát hành các quân phiếu loại 1 và nửa shilling để sử dụng trong chi tiêu. Số tiền này đôi khi được xác định sai là được in để chuẩn bị cho một cuộc xâm lược của Úc; không có cuộc xâm lược nào được lên kế hoạch và loại quân phiếu này không được sử dụng ở Úc. <ref>{{Chú thích sách|title=Invading Australia. Japan and the Battle for Australia, 1942|last=Stanley|first=Peter|publisher=Penguin Group (Australia)|year=2008|isbn=978-0-670-02925-9|location=Melbourne|pages=159–162.}}</ref> {{Clear}}
 
Hàng 40 ⟶ 50:
 
Loại 50 Centavo - PA, PB, PE, PF, PG, PH và PI ; loại 1 Peso - PH; loại 5 peso - PD; loại 10 Peso - PA, PB và PC
 
 
<nowiki></br></nowiki> Tiền chiếm đóng giả của Nhật Bản được sản xuất bởi Ngân hàng Liên bang Úc (CBA), tại thời điểm ngân hàng trung ương của Úc. Gần đây {{Khi nào|date=May 2017}} phát hiện thư từ Ủy ban Ấn Độ Hà Lan tới Thống đốc, Ngân hàng Commonwealth Úc, vào ngày 5 tháng 10 năm 1942 cho thấy yêu cầu của gần 70.000 mẩu tiền giả với các mệnh giá khác nhau. Một lá thư tiếp theo ba tháng sau đó có một yêu cầu cho 70.000 mẩu tin giả khác vì nguồn cung trước đó "tỏ ra rất hữu ích" và đã cạn kiệt. <ref>[http://davidklinger.blogspot.com/2006/06/counterfeit-jim.html Klinger's Place: Counterfeit JIM]</ref> {{Liên kết hỏng|date=May 2017}}
<sup class="noprint Inline-Template" data-ve-ignore="true"><span>&#x5B; ''[[Wikipedia:Liên kết hỏng|<span title="Dead link since May 2017">liên kết chết</span>]]'' &#x5D;</span></sup>
 
== Hậu chiến ==
Sau Thế chiến thứ hai, một tổ chức có tên gọi " '''Hiệp hội yêu cầu bồi thường quân phiếu chiến tranh Nhật Bản của Philippines'''" ('''The Japanese War Notes Claimants Association of the Philippines''', Inc. - JAPWANCAP) được thành lập vào ngày 8 tháng 1 năm 1953. Mục đích của nó là gây áp lực đến chính phủ Philippines và Hoa Kỳ, yêu cầu chuộc lại hoặc trả một phần giá trị của quân phiếu Nhật Bản sang tiền tệ Philippines. Hiệp hội đã tập hợp các các quân phiếu, cấp giấy chứng nhận thành viên, thẻ ID chính thức và sổ tiết kiệm tiền gửi. Những chứng chỉ đã được cấp cho một khoản phí. Cơ quan lập pháp Philippines không quan tâm đến việc theo đuổi vấn đề và không có gì xảy ra. Năm 1967, JAPWANCAP đã không thành công kiện chính phủ Hoa Kỳ. Các cuộc chiến pháp lý ở tòa án chống lại Nhật Bản đã nổ ra cho đến gần đây với các vụ kiện lên tòa án cao nhất của Nhật Bản.
 
Cho đến nay, không có cá nhân nào được bồi hoàn tiền chiếm đóng của Nhật Bản. Theo [[Hiệp ước San Francisco]] ký tháng 9 năm 1951, Nhật Bản đã thực hiện bồi thường theo cấp độ quốc gia, không phải cá nhân. Một lượng lớn tiền chiếm đóng của Nhật Bản vẫn tồn tại và hầu hết các quân phiếu này có thể được mua bởi các nhà sưu tập với giá rẻ.
 
== Xem thêm ==
* [[Rupiah]]
 
* [[Rupiah|Đồng rupiah của Indonesia]]
* Peso do chính phủ Nhật Bản ban hành
* [[Hoàng quân quân phiếu|Yên quân sự Nhật]]
* HawaiiQuân ghiphiếu chúHawaii
 
== Chú thích==
== Tài liệu tham khảo và ghi chú ==
{{Tham khảo}}
 
==Tham khaỏo==
 
[[Thể loại:Lịch sử kinh tế Nhật Bản]]
[[Thể loại:Kinh tế năm 1942]]
[[Thể loại:Pages with unreviewed translations]]