Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phạm Quỳnh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: replaced: chiều cao → chiều cao using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 6:
| miêu tả =
| ngày sinh = {{ngày sinh|1892|12|17}}
| nơi sinh = [[Hà Nội]], [[Bắc Kỳ]], [[Liên bang Đông Dương]]
| nơi ở =
| ngày chết = {{ngày mất và tuổi|1945|9|6|1892|12|17}}
| nơi chết = [[Thừa Thiên - Huế|Thừa Thiên]], [[Trung Bộ]], [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]]
| chức vụ = [[Ngự tiền Văn phòng]] [[Bảo Đại|Triều đình Bảo Đại]]
| bắt đầu = [[1932]]
Dòng 31:
| giáo dục =
| học trường =[[Trường Trung học phổ thông Chu Văn An, Hà Nội|Trường Bưởi]]
| dân tộc =[[Người Việt|Kinh]]
| đạo =
| chữ ký =
Dòng 43:
}}
 
'''Phạm Quỳnh''' ([[chữ Hán]]: 范瓊; [[17 tháng 12]] năm [[1892]] - [[6 tháng 9]]<ref>[http://www.tienphongonline.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=28469&ChannelID=7][http://tienphongonline.com/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=32173&ChannelID=7 Có nhiều thông tin chưa thống nhất ngày mất của Phạm quỳnh], Báo Tiền phong</ref> năm [[1945]]) là một học giả, [[nhà văn hóa]], [[nhà báo]], nhà văn và quan đại thần [[nhà Nguyễn|triều Nguyễn]] ([[Việt Nam]]). Ông là người đi tiên phong trong việc quảngsử dụng [[quốc ngữ|chữ Quốc ngữ]] và dùng [[tiếng Việt]] - thay vì [[chữ Hán|chữ Nho]] hay [[tiếng Pháp]] như người thời đó thường dùng - để viết lý luận, nghiên cứu. Ông có tên hiệu là '''Thượng Chi''' (尚之), bút danh: '''Hoa Đường''' (華堂), '''Hồng Nhân'''.
 
Ông được xem là người chiến đấu chotưởng ủng hộ sự tự trị của Việt Nam, chovà sự bảo hộ của Pháp, việc khôi phục quyền hành của [[Nhà Nguyễn|Triều đình Huế]] trên cả ba kỳ ([[Bắc Kỳ|Bắc]], [[Trung Kỳ|Trung]], [[Nam Kỳ|Nam]]), và kiên trì chủ trương chủ nghĩa quốc gia với thuyết [[Quân chủ lập hiến]] <ref name=baotp>[http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=28469&ChannelID=7 Những uẩn khúc trong cuộc đời ông chủ báo Nam Phong]</ref>. Tuy nhiên, ông cũng bị nhiều người đương thời chỉ trích vì thái độ thân Pháp và cộng tác với chính quyền thực dân Pháp<ref name=tuanbao>[http://tuanbaovannghetphcm.vn/tro-lai-chuyen-pham-quynh/ Trở lại chuyện Phạm Quỳnh], Tuần báo Văn Nghệ, 6/5/2017</ref>.
 
Ngày 28 tháng 5 năm 2016, hội đồng [[Phạm (họ)|họ Phạm Việt Nam]] phối hợp cùng gia đình nhạc sĩ [[Phạm Tuyên]] tổ chức lễ khánh thành công trình trùng tu mộ phần và dựng tượng cụ Thượng Chi Phạm Quỳnh tại [[Thành phố Huế]]. Bức tượng bán thân cụ Phạm Quỳnh do chính người cháu ngoại của cụ là [[kiến trúc sư]] [[Tôn Thất Đại]] thiết kế với [[chiều cao]] 60&nbsp;cm, bề ngang 50&nbsp;cm, được đặt ở bục cao gần 2m nằm ngay sau ngôi mộ cụ ở trước chùa Vạn Phước (phường [[Trường An]], [[Thành phố Huế]]). Phía trước bia mộ cụ được ốp tấm bia đá đen khắc ghi câu nói nổi tiếng của cụ: “'''[[Truyện Kiều]] còn tiếng ta còn. Tiếng ta còn nước ta còn'''”.<ref>{{Chú thích web|url=http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/20160529/khanh-thanh-tuong-nha-van-hoa-pham-quynh/1109326.html|title=Khánh thành tượng nhà văn hóa Phạm Quỳnh}}</ref>
 
==Tiểu sử==
[[Tập tin:PhamQuynhNgVanVinhPhamDuyTon.jpg|240px|nhỏ|[[Phạm Duy Tốn]], '''Phạm Quỳnh''' và [[Nguyễn Văn Vĩnh]] [[Paris]] [[1922]]]]
'''Phạm Quỳnh''' sinh tại số 17 phố Hàng Trống, [[Hà Nội]]; quê quán ở làng Lương Ngọc (nay thuộc xã Thúc Kháng), phủ [[Bình Giang]], tỉnh [[Hải Dương]], một làng khoa bảng, có truyền thống hiếu học. Mồ côi mẹ từ 9 tháng tuổi, mồ côi cha từ khi lên 9 tuổi; Phạm Quỳnh côi cút được bà nội nuôi ăn học.
 
'''Phạm Quỳnh''' (范瓊), tự '''Thượng Chi''' (尚之), hiệu '''Hoa Đường''' (華堂), '''Hồng Nhân''' (洪人), sinh tại số 17 phố Hàng Trống, [[Hà Nội]]; nguyên quán ở làng Lương Ngọc (nay thuộc xã Thúc Kháng), phủ [[Bình Giang]], tỉnh [[Hải Dương]], một làng khoa bảng, có truyền thống hiếu học. Mồ côi mẹ từ 9 tháng tuổi, mồ côi cha từ khi lên 9 tuổi; Phạm Quỳnh mồ côi được bà nội nuôi ăn học.
Phạm Quỳnh học giỏi, có học bổng, đỗ đầu bằng Thành chung (tốt nghiệp) Trường trung học Bảo hộ (tức [[trường Trung học phổ thông Chu Văn An, Hà Nội|trường Bưởi]], còn gọi là trường Thông ngôn).
 
Phạm Quỳnh học giỏi, có học bổng của trường, đỗ đầu bằng Thành chung (tốt nghiệp) Trường trung học Bảo hộ (tức [[trường Trung học phổ thông Chu Văn An, Hà Nội|trường Bưởi]], còn gọi là trường Thông ngôn). Năm [[1908]], Phạm Quỳnh vào [[Viện Viễn Đông Bác cổ|Trường Viễn Đông Bác cổ]] tại [[Hà Nội]] lúc 16 tuổi.
 
==Hoạt động học thuật==
[[Tập tin:PhamQuynhNgVanVinhPhamDuyTon.jpg|240px|nhỏ|[[Phạm Duy Tốn]], Phạm Quỳnh (giữa) và [[Nguyễn Văn Vĩnh]] ở [[Paris]], [[1922]]]]
Từ năm 1916, ông tham gia viết báo cho một số tờ. Ông làm chủ bút (tương đương chức vụ tổng biên tập) của [[Nam Phong tạp chí]] từ ngày 1 tháng 7 năm [[1917]] cho đến năm 1932. Việc thành lập tạp chí ''"Nam Phong tạp chí"'' là chủ trương của chính phủ [[Liên bang Đông Dương]] do [[toàn quyền Đông Dương|toàn quyền Pháp]] là [[Albert Sarraut]] đề xướng với mục tiêu đẩy mạnh ảnh hưởng văn hóa và chính trị của [[Pháp]]. Kinh phí của báo là do chính phủ Pháp trang trải, cùng đứng tên là Giám đốc [[Sở mật thám Đông Dương]] [[Louis Marty]].
 
Trước đó, Pháp cho lập tờ [[Đông Dương tạp chí]] của Nguyễn Văn Vĩnh năm 1913. Nhưng Đông Dương tạp chí có sai lầm là đề cao văn hóa Pháp một cách quá đáng, mạt sát các sĩ phu cựu học, thậm chí có những lời lẽ bất kính với nhà cách mạng [[Phan Bội Châu]]. Sau đó, ngày 30/12/1916, toàn quyền Sarraut ký nghị định cho ra tờ tạp chí Nam Phong, xuất bản mỗi tháng một kỳ<ref>[http://honvietquochoc.com.vn/bai-viet/2702-ong-pham-quynh-va-bao-nam-phong-.aspx Ông Phạm Quỳnh và báo Nam Phong], Tạp chí Hồn Việt, 27 Tháng Tư 2011</ref>.
==Hoạt động báo chí, văn hóa xã hội==
 
Tôn chỉ của Nam phong tạp chí là "''Mục đích báo Nam phong là thể cái chủ nghĩa khai hóa của Chính phủ, biên tập những bài bằng Quốc văn, Hán văn, Pháp văn để giúp sự mở mang tri thức, giữ gìn đạo đức trong quốc dân An Nam, truyền bá các khoa học của Thái Tây, nhất là học thuật tư tưởng Đại Pháp, bảo tồn quốc túy của nước Việt Nam ta, cùng bênh vực quyền lợi người Pháp người Nam trong trường kinh tế... Báo Nam phong lại chủ ý riêng về sự tập luyện văn quốc ngữ cho thành một nền quốc văn An Nam''"<ref name="tapchikhxh">[http://tapchikhxh.vass.gov.vn/gia-tri-van-hoc-cua-nam-phong-tap-chi--n50147.html Giá trị văn học của Nam phong tạp chí], Nguyễn Hữu Sơn, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam (số 8 - 2017)</ref>. Ông chủ trương dung hòa hai nền văn hóa Đông và Tây, bỏ mọi cái dở, chỉ chọn lấy cái tốt bổ ích; đề xướng dùng tiếng Việt để diễn đạt mọi khái niệm, tư tưởng, học thuyết chứ không dùng tiếng Hán như những người theo cựu học hoặc tiếng Pháp như những người theo tân học. Ông phê phán giới trí thức Việt Nam xưa sùng bái chữ Hán, nay sùng bái tiếng Pháp, đều là nô lệ tinh thần cho nước ngoài. Đây là chủ trương mới mẻ vào thời đó khi những trí thức Hán học chỉ dùng tiếng Hán để viết văn còn trí thức Tây học chỉ dùng tiếng Pháp, còn trong nhà trường Pháp ngữ là ngôn ngữ học thuật chính thống. Nam Phong tạp chí tuyên bố mục đích là gây dựng một nền học thuật mang tính dân tộc và đại chúng của người Việt nhằm phát triển văn hóa và khoa học của Việt Nam có thể sánh vai với các nước trên thế giới.<ref>[http://tiasang.com.vn/-van-hoa/Hai-cong-hien-lon-cua-Pham-Quynh-16338 Hai cống hiến lớn của Phạm Quỳnh], Tạp chí Tia sáng, 27/04/2019</ref> Theo Tuần báo Văn nghệ, tờ Nam Phong có chủ trương chống lại ảnh hưởng từ các tư tưởng chống Pháp do [[Phan Bội Châu]] đề xướng và lan rộng. Do vậy, Nam Phong chuyên viết bài truyền bá cho tư tưởng "Pháp Việt đề huề", cổ vũ người Việt cộng tác với chính quyền thực dân Pháp: tập trung tán dương và ca tụng chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương về hành chính, kinh tế; ca ngợi nước Đại Pháp trường tồn vĩnh viễn và các quan cai trị Pháp tại Việt Nam, qua đó gián tiếp chống lại những lời lên án chính quyền thực dân Pháp của [[Phan Bội Châu]], [[Phan Chu Trinh]] từ hải ngoại gửi về trong nước. Không những ca ngợi chính quyền thực dân, Nam Phong còn ca ngợi cả triều đình nhà Nguyễn của vua [[Khải Định]]. Giáo sư sử học [[Đinh Xuân Lâm]], [[Lê Mậu Hãn]] đã gọi Nam Phong là ''"cơ quan tuyên truyền chính thức cho đường lối chính trị của thực dân Pháp ở Việt Nam"''<ref>[http://tuanbaovannghetphcm.vn/ky-niem-nam-phong-tap-chi-va-ca-ngoi-pham-quynh-nham-muc-dich-gi/ Kỷ niệm Nam Phong tạp chí và ca ngợi Phạm Quỳnh nhằm mục đích gì], Tuần báo Văn nghệ TP.HCM, 21/7/2017</ref>.
Năm [[1908]], Phạm Quỳnh làm việc ở [[Viện Viễn Đông Bác cổ|Trường Viễn Đông Bác cổ]] tại [[Hà Nội]] lúc vừa tuổi 16.
[[Tập tin:NamPhong-Bia1.jpg|240px|nhỏ|Bìa Nam Phong Tạp chí số 1, xuất bản năm 1917]]
 
Có phân tích cho rằng: Mục đích thứ nhất của Nam Phong là đào tạo các trí thức cũ hướng theo lề lối Pháp. Tờ Nam Phong tuy ra vẻ độc lập vô tư, nhưng điều cốt yếu là làm cho người đọc chấp nhận sự bảo hộ của Pháp về phương diện tinh thần và trí thức, cảm thấy khâm phục văn hóa Pháp. Việc dùng chữ Quốc ngữ cũng là để vận động cho “Chủ nghĩa Pháp – Việt”, nhằm "cột Việt Nam vào Pháp bằng dây thừng văn hóa", như vậy thì vững bền hơn là dùng vũ lực. Khi [[chiến tranh thế giới thứ hai]] nổ ra, tờ Nam Phong còn hô hào người Việt hãy phục vụ cho pháp, cổ động người Việt đóng góp tiền cho Pháp với khẩu hiệu ''“Rồng Nam phun bạc, đánh đổ Đức tặc”''. Giáo sư Sử học Văn Tạo có nhận xét: ''“Ông Phạm Quỳnh có công chuyển tải văn hóa Đông – Tây trên văn đàn, báo giới Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm cho ngôn ngữ văn hóa Việt Nam. Điều đáng chê trách nhất ở ông là đã ra làm chủ bút cho báo Nam Phong do tên trùm mật thám Louis Marty chủ trì. Với chức danh đó, ông không thể không có sai lầm làm hại đến quyền lợi dân tộc”''<ref>[http://honvietquochoc.com.vn/bai-viet/2702-ong-pham-quynh-va-bao-nam-phong-.aspx Ông Phạm Quỳnh và báo Nam Phong], Tạp chí Hồn Việt, 27 Tháng Tư 2011</ref>. Nhà sử học [[Trần Văn Giàu]] thì gọi chủ nghĩa quốc gia của Nam Phong là ''"chủ nghĩa quốc gia ăn xin"'', tức là chỉ trông đợi thực dân Pháp ban cho ân huệ<ref>[http://tuanbaovannghetphcm.vn/chuyen-khoi-hai-trong-gioi-su-hoc-hien-nay/ Chuyện khôi hài trong giới sử học hiện nay!], Báo Văn nghệ, 22/7/2017</ref>.
Từ năm 1916, Ông tham gia viết báo cho một số tờ có uy tín đương thời; làm chủ bút kỳ cựu của [[Nam Phong tạp chí]] từ ngày 1 tháng 7 năm [[1917]] cho đến năm 1932; tuyên truyền cho tư tưởng "Pháp Việt đề huề".
 
Ngày [[2 tháng 5]] năm [[1919]], ông sáng lập và là Tổng Thư ký [[Khai Trí Tiến Đức|Hội Khai trí Tiến Đức]], [[Trần Trọng Kim]] là Trưởng ban Văn học của Hội; và Hội trưởng [[Trí Tri|Hội Trí tri Bắc Kỳ]]. Năm 1922, với tư cách đại diện cho Hội Khai trí Tiến Đức, ông đã sang Pháp dự Hội chợ triển lãm [[Marseille]] rồi diễn thuyết cả ở Ban Chính trị và Ban Luân lý [[Viện Hàn lâm Pháp]] về dân tộc giáo dục. Tại đây, ông ca ngợi công cuộc "khai hóa văn minh" của nước Pháp như sau<ref>[http://tuanbaovannghetphcm.vn/nguyen-ban-pham-quynh/ Nguyên bản Phạm Quỳnh], 30/9/2017, Tuần báo Văn nghệ TP.HCM</ref>:
Cũng trong thời kỳ 1924-1932, ông còn là giảng viên Trường [[Cao đẳng Hà Nội]].
:''40 năm qua, dân nước Nam sống dưới sự bảo hộ của nước Pháp... Ban đầu chúng tôi coi tình trạng này như là một việc bị áp đặt do nền chính trị yếu kém của chúng tôi không cho phép chống lại một kẻ đi chinh phục mạnh bạo hơn nhiều. Nhưng dần dần, trong khi chung sống, chúng tôi ngày càng hiểu biết các ngài rõ hơn. Chúng tôi biết rõ hơn về nước Pháp và vị thế của nó trên thế giới. Và dưới tác động của vẻ duyên tinh thần Pháp, chúng tôi dần dần bị cuốn hút, bị chinh phục bởi nền văn hóa và nền văn minh của các ngài... ngày nay, giới tinh hoa nước Nam đã hoàn toàn tin tưởng vào chính quyền Pháp, hơn thế nữa, còn hoàn toàn tin cậy nước Pháp chăm lo cho công việc học hành và giáo dục của mình''.
 
Phạm Quỳnh tỏ ra khinh miệt, căm ghét những phong trào chống Pháp như [[khởi nghĩa Yên Bái]] và Xô Viết Nghệ Tĩnh, ông gọi họ là "bọn cường đồ, phản loạn"… và mong Nhà nước Bảo hộ (Pháp) trừng trị thật mạnh. Khi Phan Châu Trinh qua đời năm 1926, phong trào truy điệu, để tang diễn ra trên cả nước để thể hiện tinh thần yêu nước và chống Pháp, nhưng Phạm Quỳnh thì đả kích rằng ''“…đây chỉ là một nhóm người khai thác một cái xác chết…”''<ref name="vannghe123">[http://tuanbaovannghetphcm.vn/danh-nhan-bat-dong-so-514/ Danh nhân bất đồng], Tuần báo Văn nghệ TP.HCM, 8/9/2018</ref>
Ngày [[2 tháng 5]] năm [[1919]], ông sáng lập và là Tổng Thư ký [[Khai Trí Tiến Đức|Hội Khai trí Tiến Đức]], [[Trần Trọng Kim]] là Trưởng ban Văn học của Hội; và Hội trưởng [[Trí Tri|Hội Trí tri Bắc Kỳ]].
 
Từ năm 1925, trong một bức thư trả lời một anh học trò tên Đông, nhà yêu nước [[Phan Châu Trinh]] đã có nhận xét: ''“... gặp những người lờ đờ, đen không ra đen, trắng không ra trắng, bên nào cũng chẳng mất lòng ai cả, nói trăm điều trượt đến chín mươi chín, anh bảo tôi lại đề huề với những người đó để nhận chìm những 20 triệu đồng bào xuống hỏa ngục sao?... còn các anh như Phạm Quỳnh thì tôi thấy một hai bài trong nhật trình, không những là giả dối vẽ vời mà lại nói lắm điều hại cho thanh niên nhiều lắm”''. Trong thư này, Phan Châu Trinh phê phán thái độ “bắt cá hai tay”, vừa tỏ vẻ yêu nước, vừa cộng tác với Pháp của Phạm Quỳnh. Nhóm Phong Hóa Ngày Nay thì liên tiếp công kích Phạm Quỳnh, tờ báo "Phong Hóa" của nhóm này liên tục có bài phê bình, chế giễu dưới hình thức thơ văn, ca dao, nghị luận, tranh khôi hài của những tác giả như [[Hoàng Đạo]], [[Thạch Lam]], [[Tú Mỡ]]...<ref name="vannghe123"/>
Năm 1922, với tư cách đại diện cho Hội Khai trí Tiến Đức, ông đã sang Pháp dự Hội chợ triển lãm [[Marseille]] rồi diễn thuyết cả ở Ban Chính trị và Ban Luân lý [[Viện Hàn lâm Pháp]] về dân tộc giáo dục.
 
Năm 1924, ông được mời làm giảng viên Khoa Bác ngữ học, Văn hóa, Ngữ ngôn Hoa Việt, của Trường Cao đẳng Hà Nội, trợ bút báo [[Liên bang Đông Dương|France - Indochine]].
 
Từ năm 1925 - 1928, Phạm Quỳnh là Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ; năm 1926, ông làm ở Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ và đến năm 1929 được cử vào Hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương.
 
Năm 1930, Phạm Quỳnh đề xướng thuyết lập hiến, đòi hỏi người Pháp phảicho thành lập hiến pháp, để quy định rõ ràng quyền căn bản của nhân dân Việt Nam, vua quan Việt Nam và chính quyền bảo hộ. Năm 1931, ông được giao chức Phó Hội trưởng Hội Địa dư Hà Nội. Năm 1932, giữ chức Tổng Thư ký Ủy ban Cứu trợ xã hội Bắc Kỳ.
 
==Làm quan Thượng thư==
Năm 1931, ông được giao chức Phó Hội trưởng Hội Địa dư Hà Nội. Năm 1932, giữ chức Tổng Thư ký Ủy ban Cứu trợ xã hội Bắc Kỳ.
Năm 1931, khi gửi thư cho Tổng trưởng thuộc địa Pháp cho “xin lại Tổ quốc đã mất”, Phạm Quỳnh viết như sau<ref name=tuanbao />:
::''“Người nước Nam không phải thể hiện ồn ào lòng trung thành của họ đối với nước Pháp. Chỉ cần họ chấp nhận sự đô hộ của nước Pháp. Yêu cầu họ phấn khởi chấp nhận điều đó như một ân huệ của Chúa hay một ân huệ Thiên Hựu, tới mức khiến họ quên rằng họ đã từng có một Tổ quốc và không còn nuối tiếc Tổ quốc ấy nữa”''.
 
Trong một đoạn khác của bức thư, Phạm Quỳnh viết<ref>[http://tuanbaovannghetphcm.vn/chuyen-khoi-hai-trong-gioi-su-hoc-hien-nay/ Chuyện khôi hài trong giới sử học hiện nay], Tuần báo Văn nghệ Tp.HCM</ref>:
==Thượng thư Nam triều==
::''“Về phương diện quốc gia thì sự khủng hoảng ấy có thể tóm lại một câu như sau: Chúng tôi là một dân tộc đang đi tìm tổ quốc mà chưa thấy tổ quốc ở đâu… Chúng tôi chỉ thỉnh cầu quan lớn có một điều, một điều rất thiết tha quan hệ hơn cả các điều khác, là xin ngài cho chúng tôi cái tổ quốc để chúng tôi thờ”''
Ngày 11 tháng 11 năm 1932, sau khi [[Bảo Đại]] lên làm vua thay [[Khải Định]], ông được triều đình nhà Nguyễn triệu vào Huế tham gia chính quyền [[Bảo Đại]], ông thôi không làm chủ bút Nam phong Tạp chí nữa. Tại Huế thời gian đầu ông làm việc tại Ngự tiền Văn phòng, sau đó làm [[Thượng thư]] [[Bộ Học]] và cuối cùng giữ chức vụ Thượng thư [[Bộ Lại]] ([[1944]]-[[1945]]).
 
Ngày 11 tháng 11 năm 1932, sau khi [[Bảo Đại]] lên làm vua thay [[Khải Định]], ông được triệu vào Huế tham gia chính quyền [[Bảo Đại]], thôi không làm chủ bút Nam phong Tạp chí nữa. Tại Huế thời gian đầu ông làm việc tại Ngự tiền Văn phòng, sau đó làm [[Thượng thư]] [[Bộ Học]] và cuối cùng giữ chức vụ Thượng thư [[Bộ Lại]] ([[1944]]-[[1945]]) – chức quan cao nhất của triều đình, đứng dầu các bộ (như Thủ tướng).
Trong một bài viết trên báo Sông Hương, ông đã đả phá [[Trần Trọng Kim]] và các sử gia phong kiến khi cho [[Triệu Đà]] là vua của nước Nam. theo ông "quốc sử phải lấy dân tộc làm nền", "sử gia phong kiến tôn y (Triệu Đà) là ông vua khai quốc, ấy là đã làm một việc vô nghĩa...Hoặc có ai ngờ cho tôi sở dĩ cái kiến giải nầy là tại quá trọng về quốc gia chủ nghĩa, và cũng bởi cái chủ nghĩa ấy khích thích nên tôi mới viết bài này"<ref>Sông Hương ngày 15 Tháng Tám 1936</ref>.
 
Khi làm quan, Phạm Quỳnh từng sang Pháp đề nghị Pháp thực hiện [[Hòa ước Giáp Thân (1884)]], báo Ngày Nay số ngày 26/8/1939 viết<ref name=honviet/>:
:''“Trong bảy năm ông làm một trụ cột trong triều đình Huế, lương cao, bổng hậu, ông đã không làm được một mảy may cho dân cho nước. Và mới đây công việc ông định làm là sang Pháp xin trở lại hòa ước 1884 và sát nhập Bắc Kỳ vào Trung Kỳ dưới triều đình Huế - thật là một việc thất sách và vụng về hết chỗ nói…''
:''Dân đất Bắc như ông Phạm Quỳnh nói, cũng muốn lắm có một “tổ quốc để mà thờ” nhưng tổ quốc ấy phải là một tổ quốc hiện thực. Chứ đòi về một thứ tổ quốc “bố vờ” mà lại mất hết những thứ hiện có thì ôi thôi, chúng tôi xin bái ngoảnh ông Phạm Quỳnh lẫn công ty của ông và cả mũ cánh chuồn của ông nữa!”''.
 
Vua [[Bảo Đại]] viết trong hồi ký ''"Con rồng An Nam"'' rằng Phạm Quỳnh giống như một [[mật thám]] của Pháp bố trí bên cạnh để khống chế ông<ref name=tuanbao />:
::''“Tôi đóng vai trò bình phong, làm phỗng đá để cho các quan lại của họ (Pháp) tha hồ làm mưa làm gió. Họ cũng đặt ở các địa vị then chốt những bọn tay sai dễ bảo, bọn trung thành tuyệt đối. Họ đặt Phạm Quỳnh cạnh tôi, như vậy là họ được bảo đảm rồi”''
 
Khi bị nhiều người đương thời lên án là kẻ bán nước thì Phạm Quỳnh đã trả lời: ''“Khi tôi sinh ra thì nước đã mất rồi, tôi làm sao bán được!”''. Câu nói này của Phạm Quỳnh thời đó nổi tiếng đến mức đến ngày nay vẫn có người nhắc lại.<ref name=honviet>[http://honvietquochoc.com.vn/bai-viet/2702-ong-pham-quynh-va-bao-nam-phong-.aspx Ông Phạm Quỳnh và báo Nam Phong], Tạp chí Hồn Việt, 27 Tháng Tư 2011</ref>
 
==Cuối đời==
===Sống ẩn dật===
Ngày [[9 tháng 3]] năm 1945, [[Nhật Bản|Nhật]] đảo chính [[Pháp]]. [[Chính phủ Việt Nam#Lịch sử|Chính phủ Trần Trọng Kim]] được thành lập. Ông về sống ẩn dật ở biệt thự Hoa Đường bên bờ sông đào Phủ Cam, Huế.
Ngày [[9 tháng 3]] năm 1945, [[Nhật Bản|Nhật]] đảo chính [[Pháp]]. Bảo Đại muốn tạm cử Phạm Quỳnh là người thay mặt chính phủ Việt Nam để giao thiệp với Nhật. Ông [[Phạm Khắc Hòe]], Tổng lý Ngự triều Văn phòng của triều đình, nói với Bảo Đại rằng: ''“Phạm Quỳnh là một người xấu, bị mọi tầng lớp nhân dân oán ghét và giới trí thức khinh bỉ… cho nên nếu nhà vua thực tâm vì dân, vì nước thì không nên dùng Phạm Quỳnh nữa”''. Cụ [[Bùi Bằng Đoàn]] và cụ Ưng Úy là hai vị thượng thư tương đối có uy tín trong Hội đồng Cơ mật và trong quan trường nói chung đều nói với ông Phạm Khắc Hòe là “''cần làm cho nhà vua thấy rõ bản chất xấu xa và nguy hiểm của Phạm Quỳnh''”. Phát xít Nhật cũng không muốn ủng hộ một con người bị nhiều điều tiếng như Phạm Quỳnh nên đã ủng hộ Trần Trọng Kim<ref name=tuanbao />.
 
Sau khi chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập, Phạm Quỳnh về sống ẩn dật ở biệt thự Hoa Đường bên bờ sông đào Phủ Cam, Huế.
Ông bị [[Việt Minh]] bắt giam ngày [[23 tháng 8]] năm [[1945]] và giam ở lao Thừa Phủ, Huế.
 
Giáo sư [[Nguyễn Văn Trung]] dẫn ý kiến của bác sĩ [[Trần Đình Nam]], Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong chính phủ Trần Trọng Kim nói về Phạm Quỳnh như sau<ref name=tuanbao />:
Ông bị giết sau đó cùng với nguyên Tổng đốc Quảng Nam [[Ngô Đình Khôi]] (anh ruột [[Ngô Đình Diệm]]) và Ngô Đình Huân (con trai của Ngô Đình Khôi).
:''“Sau đảo chính 9/3/1945, khi tiếp thu Bộ Lại của ông Phạm Quỳnh, cụ (Trần Đình Nam) thấy một tủ sách niêm phong kỹ của viên cố vấn chánh trị người Pháp, cụ ra lệnh mở ra và đã đọc những tài liệu ghi các việc người Pháp chỉ thị cho Phạm Quỳnh thi hành và họ đã dùng những chữ rất khinh bỉ để gọi Phạm Quỳnh như một tay sai dễ bảo, trung thành. Cụ không muốn nói rõ những chữ đó là gì, cũng không muốn kể lại những việc Pháp ra lệnh cho Phạm Quỳnh làm là những việc gì, nhưng cụ có nói một câu để tóm lược tất cả: đó là những việc làm của một người phản quốc. Thế là đủ hiểu và cụ nói tiếp, từ đó tôi hoàn toàn thất vọng và khinh Phạm Quỳnh”''.
 
Khi Hồ Chí Minh từ Việt Bắc về Hà Nội, ông nhờ [[Hoàng Hữu Nam]] vào Huế để đưa bức thư của ông mời Phạm Quỳnh ra Hà Nội. Tuy nhiên thư này chưa đến tay Phạm Quỳnh thì ông này đã bị Việt Minh tại Huế xử bắn.<ref>[https://www.bbc.com/vietnamese/culture/2009/02/090315_pham_tuyen Sửa sai về học giả Phạm Quỳnh], BBC Tiếng Việt, 26 tháng 2 2009</ref>
Di hài ông được tìm thấy năm 1956 trong khu rừng Hắc Thú, và được cải táng ngày 9 tháng 2 năm 1956 tại Huế, trong khuôn viên chùa Vạn Phước.<ref>{{Chú thích báo
| tên=
| họ=
| tác giả=ChúngTa.com
| đồng tác giả=
| url=http://chungta.com/Desktop.aspx/Tac-gia/Tac-gia/Pham_Quynh/
| tên bài=Phạm Quỳnh
| công trình=
| nhà xuất bản=ChúngTa.com
| số=
| các trang=
| trang=
| ngày=29/06/2009
| ngày truy cập=13/6/2010
| url lưu trữ=http://chungta.com/Desktop.aspx/Tac-gia/Tac-gia/Pham_Quynh/
| ngày lưu trữ=13/01/2010
| ngôn ngữ=tiếng Việt
| trích dẫn=Gia đình Phạm Quỳnh
}}</ref>
 
===Bị Việt Minh xử bắn ===
Thông tin về ai đã ra lệnh giết ông được lý giải theo nhiều giả thuyết khác nhau.
Cuối tháng 8/1945, thực dân Pháp cho quân nhảy dù tìm cách bắt liên lạc với Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh để đánh chiếm Huế, thiết lập lại chế độ do Pháp thống trị miền Trung Việt Nam. Toán quân nhảy dù Pháp bị du kích địa phương bắt được nên kế hoạch bại lộ, ông bị [[Việt Minh]] bắt giam ngày [[23 tháng 8]] năm [[1945]] và giam ở lao Thừa Phủ, Huế.
 
Ông bị xử bắn sau đó cùng với nguyên Tổng đốc Quảng Nam [[Ngô Đình Khôi]] (anh ruột [[Ngô Đình Diệm]]) và Ngô Đình Huân (con trai của Ngô Đình Khôi). Di hài ông được tìm thấy năm 1956 trong khu rừng Hắc Thú, và được cải táng ngày 9 tháng 2 năm 1956 tại Huế, trong khuôn viên chùa Vạn Phước.
===Cái chết của Phạm Quỳnh ===
*Cuốn ''Tác gia văn học Thăng Long Hà Nội từ thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XX'', mục về Phạm Quỳnh (1892-1945) cũng có một dòng: Đến [[Cách mạng tháng Tám|Cách mạng Tháng Tám]] 1945 chính quyền nhân dân khép án tử hình<ref name="baotp"/>.
*Có lệnh cấp tốc di dời [[Ngô Đình Khôi]] và Phạm Quỳnh ra khỏi cố đô đề phòng những chuyện bất trắc không hay sau này. Nhóm du kích áp tải đến một quãng rừng cách xa Huế thì nghe tiếng tàu bay Pháp ầm ì trên đầu tưởng đâu như tiếng máy bay thả biệt kích. Sợ không hoàn thành trách nhiệm di dời nên nhóm áp tải đã tự động thủ tiêu cả ba người mà không chờ chỉ thị của cấp trên<ref name=baotp/>. Giả thuyết này không đề cập đến cấp trên là ai hay cơ quan nào ra lệnh<ref name=baotp/>.
*Có người cho rằng trong số người đi áp tải đó có người nhà Thượng thư [[Nguyễn Hữu Bài]], người có mối hiềm từ lâu với Phạm Quỳnh nên đã lợi dụng việc này mà giải quyết ân oán<ref name=baotp/>.
*Có nguồn tin, vì Pháp cho biệt kích tìm Phạm Quỳnh nhưng nhóm này bị bắt và để lộ thông tin, và Phạm Quỳnh bị dân quân địa phương (Hiền Sĩ, [[Thừa Thiên - Huế|Thừa Thiên, Huế]]) giết. Nhà văn Thái Vũ lý giải:
:''Mà lúc ấy trong dân chúng, buổi đầu cách mạng, cũng là trong ngày đầu chính quyền mới do dân làm chủ thì mấy tiếng [[Việt gian]], diệt Việt gian kèm theo hành động lan truyền… khắp mọi nơi, nhất là đối với những người có "thành tích" thân Pháp.''
:''Mà hai cụ họ Phạm và Ngô thì rõ ràng quá, tránh sao lúc trong dân, chỉ mới hưởng 1 ngày đầu chính quyền cách mạng, còn căm thù bọn thống trị Pháp và đám tay chân người bản xứ của chúng, có hành động manh động. Đó hẳn là "nỗi uẩn khúc" cuối cùng của ông chủ báo Nam Phong…''<ref>Xem bài: [http://tienphongonline.com/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=32173&ChannelID=7 "Về cái chết của ông chủ bút tạp chí Nam Phong"], Thái Vũ, đăng trên báo Tiền Phong</ref>.
 
Cuốn ''Tác gia văn học Thăng Long Hà Nội từ thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XX'', mục về Phạm Quỳnh (1892-1945) chỉ ghi ngắn gọn: Đến [[Cách mạng tháng Tám|Cách mạng Tháng Tám]] 1945 chính quyền nhân dân khép án tử hình<ref name="baotp"/>. Một giả thuyết khác nói rằng: có lệnh cấp tốc đưa [[Ngô Đình Khôi]] và Phạm Quỳnh ra khỏi cố đô đề phòng 2 người gây ra những chuyện bất trắc sau này. Nhóm du kích áp tải đến một quãng rừng cách xa Huế thì nghe tiếng máy bay Pháp trên đầu giống như tiếng máy bay thả biệt kích. Sợ không hoàn thành trách nhiệm hoặc bị quân Pháp tập kích nên nhóm áp tải đã xử bắn cả ba người mà không chờ chỉ thị của cấp trên<ref name=baotp/>. Giả thuyết này không đề cập đến cấp trên là ai hay cơ quan nào ra lệnh<ref name=baotp/>. Nhà văn Thái Vũ lý giải: ''Mà lúc ấy trong dân chúng, buổi đầu cách mạng, cũng là trong ngày đầu chính quyền mới do dân làm chủ thì mấy tiếng [[Việt gian]], diệt Việt gian kèm theo hành động lan truyền… khắp mọi nơi, nhất là đối với những người có "thành tích" thân Pháp. Mà hai cụ họ Phạm và Ngô thì rõ ràng quá, tránh sao lúc trong dân, chỉ mới hưởng 1 ngày đầu chính quyền cách mạng, còn căm thù bọn thống trị Pháp và đám tay chân người bản xứ của chúng, có hành động manh động…''<ref>[http://tienphongonline.com/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=32173&ChannelID=7 "Về cái chết của ông chủ bút tạp chí Nam Phong"], Thái Vũ, đăng trên báo Tiền Phong</ref>. Có người cho rằng trong số người đi áp tải đó có người nhà Thượng thư [[Nguyễn Hữu Bài]], người có mối thù hận từ lâu với Phạm Quỳnh nên đã lợi dụng việc này mà giải quyết ân oán cá nhân<ref name=baotp/>.
* Cái chết của ông đã được nhiều báo đưa tin ngay sau đó
 
Tuần báo Quyết Thắng, cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh Trung Bộ, Số 11 ra ngày 9-12-1945 đăng toàn văn thông báo của Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương gửi Tòa án quân sự Thuận Hóa như sau<ref>[https://xuanay.vn/pham-quynh-va-ban-tu-hinh-doi-voi-ong/ Phạm Quỳnh và bản án tử hình đối với ông], Nhật Hoa Khanh, Tạp chí Xưa & Nay - Số 269 (10/2006)</ref>:
:Báo Cứu quốc của Việt Minh ngày 18 Tháng Bảy 1946 đăng ''"Khi ra pháp trường, Phạm Quỳnh đã tuyên bố: Tôi vẫn tin tưởng rằng nước Việt Nam phải có một nước như nước Pháp dìu dắt thì mới có thể đi tới văn minh và độc lập được"'', và theo báo này: ''sự thực Phạm Quỳnh trước khi nhận mấy viên đạn kết liễu cái đời phản quốc, đã co rúm người lại không nói được một câu nào. Theo chỗ chúng tôi biết, trong những ngày bị giam, một vài lần Quỳnh có nói..."Tôi vẫn tưởng rằng phải có nước Pháp thì nước Việt Nam mới tiến tới độc lập được. Tôi thật không ngờ nước Việt Nam lại có ngày nay"...có nghĩa là Quỳnh đã phải nhận rằng nước Việt Nam có thể dùng sức mạnh của mình đoạt được chính quyền"...Quỳnh là đại diện cho cái tàn lực của đẳng cấp phong kiến Việt Nam...Phong trào giải phóng Tổ quốc do đại chúng chủ trương càng dâng lên cao, đẳng cấp ấy lại càng bám riết lấy kẻ thù hôm trước để hòng kéo dài những ngày tàn tạ...Dưới cái quyền uy hống hách của đế quốc, lắm lúc họ cũng cảm thấy chua sót cái số kiếp hèn hạ, nhỏ nhen của họ. Nhưng họ biết làm sao khi tinh lực đẳng cấp họ đã khô kiệt!...Quỳnh đã diễn giải sai lầm sự khiếp nhược của mình ra sự khiếp nhược của dân tộc,...Những bài học của sự thật, sự thực đẫm máu của lịch sử, cho đến ngày nay vẫn chưa làm mở mắt nhiều kẻ nhất định ẩn lấp ở trong cái hào lũy thành kiến gây ra bởi những đặc quyền, đặc lợi của đẳng cấp...Họ quan niệm sự vật một cách rất ngây thơ. Họ tưởng những kẻ vẫn nhởn nhơ ở trên thượng tầng xã hội là những kẻ làm cho xã hội tiến hóa. Họ lầm. Những kẻ mà trên trường kinh tế đã trở thành một bày lũ ký sinh chỉ có thể là những chông gai ở trên đường tiến hóa, họ chỉ có thể chờ ngày mà xe tiến hóa nghiến nát họ đi hay gạt họ ra ngoài dìa lịch sử''<ref>Báo Cứu quốc ngày 18 Tháng Bảy 1946, tr.1,4</ref>.
 
{{cquote|''Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương kính gửi Tòa án quân sự Thuận Hóa''
==Di sản==
Phạm Quỳnh được coi là người đi tiên phong trong việc dùng tiếng Việt để viết lý luận. [[Dương Quảng Hàm]] đánh giá các công trình của ông là đã "''luyện cho tiếng ta có thể diễn dịch được các lý thuyết, các ý tưởng về triết học, khoa học mới.''"<ref>{{chú thích sách|author=Dương Quảng Hàm|title=Việt Nam văn học sử yếu|year=1941}}</ref>
 
''Trước khi Tòa án đưa ra xét xử [[Việt gian]], chúng tôi xin nói về vụ án ba tên Việt gian chúng tôi đã xử trong thời kỳ thiết quân luật để ngài rõ và nhờ ngài công bố cho dân chúng đều biết kết quả một đời phản quốc của chúng.''
Trước đây, cũng có nhiều người cho rằng ông gắn bó với các chủ trương chính trị của thực dân Pháp. Ông bị coi là "ru ngủ" thanh niên trí thức trong cái "hồn nước" mơ hồ, khiến họ đi chệch khỏi chí hướng làm cách mạng chống Pháp. Trong một thời gian dài, quan điểm chính thống của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam gọi ông là tay sai đắc lực của Pháp.<ref>[http://www.khamphahue.com.vn/vanhoa-dulich-Hue/l-3/C1D436B5-C476-4D26-92C3-86473C9723C5/15570-con-nguoi-pham-quynh.aspx Con người Phạm Quỳnh], TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỔNG HỢP KHÁM PHÁ HUẾ, 20/10/2014</ref>
 
''Án phản quốc''
Gần đây, tại Việt Nam bắt đầu có sự đánh giá công bằng hơn. ''Từ điển Văn học bộ mới'' (2004) coi ông là người có tinh thần dân tộc, ôm ấp một chủ nghĩa quốc gia theo xu hướng ôn hòa, lấy việc canh tân văn hóa để làm sống lại hồn nước. Kể từ năm [[2000]], nhiều tác phẩm của Phạm Quỳnh đã được xuất bản tại Việt Nam:
* ''Mười ngày ở Huế'', Nhà xuất bản Văn học - 2001
* ''Luận giải Văn học và Triết học'', Nhà xuất bản Thông tin, 2003
* ''Pháp du hành trình nhật ký'', Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2004
* ''Thượng Chi văn tập'', Nhà xuất bản Văn học, 2007
* ''Du ký Việt Nam'', Nhà xuất bản Trẻ, 2007
* ''Phạm Quỳnh - Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp'', Nhà xuất bản Tri thức, 2007 (gồm những bài diễn thuyết, bài báo ông viết bằng tiếng Pháp từ [[1922]] đến [[1932]])
 
''Ba tên Việt gian tối nguy hiểm:''
Theo nhạc sĩ [[Phạm Tuyên]] - con trai của học giả Phạm Quỳnh, vào mùa thu năm [[1945]], [[Hồ Chí Minh]] đã nói với hai người chị của ông là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức rằng: ''"Cụ Phạm là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này. Con cháu cứ vững tâm đi theo cách mạng"''.
<ref>Phạm Tuyên, ''[http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=103739&ChannelID=7 Lịch sử sẽ công bằng với cha tôi]'', 04/12/2007</ref>
 
''1. Ngô Đình Khôi: Trước làm tay sai cho thực dân Pháp đàn áp phong trào cách mạng ở Quảng Nam và Quảng Ngãi; suốt năm 1938, 39, 40, 41, 42, 43 đã giết hại vô số chiến sĩ cách mạng Việt Nam. Dựa vào thế lực của giặc Pháp, Ngô Đình Khôi lại còn vơ vét tiền của quốc dân, đến lúc Nhật mạnh, lại mưu toan bán nước cho phát xít Nhật, ngấm ngầm phá hoại phong trào độc lập của Mặt trận Việt Minh.''
==Tác phẩm==
Ông là tác giả và dịch giả nhiều bài viết và sách văn học, triết học, cách ngôn, ngụ ngôn, tuồng hát tiếng Pháp dịch ra tiếng Việt và tùy bút. Gần như toàn bộ các tác phẩm của ông đều đăng trên tạp chí Nam Phong. Nhiều bài sau đó in lại thành sách do Đông Kinh ấn quán ở Hà Nội xuất bản.
 
''2. Phạm Quỳnh, một tay cộng sự rất đắc lực của giặc Pháp trong việc củng cố địa vị của Pháp ở Đông Dương, đã bao phen làm cho quốc dân phải điêu đứng. Phạm Quỳnh đã giúp sức cho quân cướp nước làm mê muội dân chúng Việt Nam. Với cái nghề mãi quốc cầu vinh, Phạm Quỳnh đã từ một tên viết báo nhảy lên một địa vị cao nhất trong hàng quan lại Nam triều. Phạm Quỳnh lại còn dựa vào thế lực Pháp và địa vị của mình bóc lột, vơ vét tài sản của quốc dân. Mặc dầu chính quyền của giặc Pháp đã bị truất sau ngày đảo chính 9-3-1945, nhiều triệu chứng tỏ rằng Phạm Quỳnh chỉ chờ cơ hội rước bọn thực dân Pháp đến làm cho diệt nước chúng ta.''
Các tác phẩm của ông có thể chia làm ba loại:
 
''3. Ngô Đình Huân, một tay cộng sự hết sức lợi hại của phát xít Nhật mới đặt chân đến Đông Dương. Ngô Đình Huân đã giúp Nhật một cách có hiệu lực trong công cuộc quấy rối nước ta và cản trở phong trào độc lập của quốc dân Việt Nam.''
 
''Cả ba tên Việt gian đại bợm đã bị bắt ngay trong giờ cướp chính quyền (2 giờ 23-8-1945) ở Thuận Hóa và đã bị Ủy ban Khởi nghĩa kết án tử hình và đã thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật.''
 
''Tài sản và vật dụng của ba tên ấy đều là kết quả của sự phản bội quốc gia, bóc lột dân chúng mà có, nên đều phải bị tịch thu và quốc hữu hóa.''
 
''Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương''}}
 
Cái chết của ông đã được nhiều báo đưa tin ngay sau đó. Báo Cứu quốc của Việt Minh ngày 18 Tháng Bảy 1946 đăng ''"Khi ra pháp trường, Phạm Quỳnh đã tuyên bố: Tôi vẫn tin tưởng rằng nước Việt Nam phải có một nước như nước Pháp dìu dắt thì mới có thể đi tới văn minh và độc lập được"'', và theo báo này: ''sự thực Phạm Quỳnh trước khi nhận mấy viên đạn kết liễu cái đời phản quốc, đã co rúm người lại không nói được một câu nào. Theo chỗ chúng tôi biết, trong những ngày bị giam, một vài lần Quỳnh có nói..."Tôi vẫn tưởng rằng phải có nước Pháp thì nước Việt Nam mới tiến tới độc lập được. Tôi thật không ngờ nước Việt Nam lại có ngày nay"...có nghĩa là Quỳnh đã phải nhận rằng nước Việt Nam có thể dùng sức mạnh của mình đoạt được chính quyền"...Quỳnh là đại diện cho cái tàn lực của đẳng cấp phong kiến Việt Nam...Phong trào giải phóng Tổ quốc do đại chúng chủ trương càng dâng lên cao, đẳng cấp ấy lại càng bám riết lấy kẻ thù hôm trước để hòng kéo dài những ngày tàn tạ...Dưới cái quyền uy hống hách của đế quốc, lắm lúc họ cũng cảm thấy chua sót cái số kiếp hèn hạ, nhỏ nhen của họ. Nhưng họ biết làm sao khi tinh lực đẳng cấp họ đã khô kiệt!...Quỳnh đã diễn giải sai lầm sự khiếp nhược của mình ra sự khiếp nhược của dân tộc,... Họ quan niệm sự vật một cách rất ngây thơ. Họ tưởng những kẻ vẫn nhởn nhơ ở trên thượng tầng xã hội là những kẻ làm cho xã hội tiến hóa. Họ lầm. Những kẻ mà trên trường kinh tế đã trở thành một bày lũ ký sinh chỉ có thể là những chông gai ở trên đường tiến hóa, họ chỉ có thể chờ ngày mà xe tiến hóa nghiến nát họ đi hay gạt họ ra ngoài rìa lịch sử''<ref>Báo Cứu quốc ngày 18 Tháng Bảy 1946, tr.1,4</ref>.
 
Khi nghe tin Phạm Quỳnh bị xử bắn, Hồ Chí Minh rất bất ngờ và nói với [[Tôn Quang Phiệt]]: “''Giết một học giả như vậy thì nhân dân được gì? Cách mạng được lợi ích gì?... Tôi đã từng gặp cụ Phạm ở Pháp… Đó không phải là người xấu''”<ref name="tapchikhxh"/>.
 
Về sau, có nguồn tin chính thức mô tả chi tiết sự kiện này: chính phủ De Gaulle cho một phái đoàn quân sự nhảy dù xuống Huế hòng liên lạc với Phạm Quỳnh để chuẩn bị cho kế hoạch đánh chiếm miền trung, nhưng nhóm này chưa gặp Phạm Quỳnh thì đã bị bắt và để lộ thông tin, nên Phạm Quỳnh bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ cùng Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Huân rồi sau đó bị Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương (tức tỉnh [[Thừa Thiên - Huế|Thừa Thiên, Huế]]) tuyên án tử hình và xử bắn do bị kết tội làm nội ứng cho Pháp. Theo đó, ngày 25/8/1945, một phái đoàn quân sự Pháp nhảy dù xuống Hiền Sĩ, cách Huế 25&nbsp;km về phía Bắc. Toán nhảy dù có 6 sĩ quan Pháp do quan tư Casténa chỉ huy. Dân quân Việt Nam bố trí bắt gọn nhóm sĩ quan này, tịch thu vũ khí và tài liệu, gồm có: 6 khẩu súng Các-bin Mỹ, 6 khẩu súng ngắn Browning, 2 điện đài, 2 máy phát điện, 6 túi cá nhân đựng rất nhiều quân trang, đạn dược, 6 cặp sĩ quan đựng bút giấy, tài liệu và rất nhiều bản đồ in trên lụa rất có giá trị. Trong cặp của Casténa có Mật lệnh của Thống chế Pháp là [[De Gaulle]] ghi rõ: ''"Quan tư Casténa có nhiệm vụ bắt liên lạc với Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, với các lực lượng Pháp ở hải ngoại (FFE) và các lực lượng Pháp nội địa (FFI) để tổ chức chiếm lĩnh các công sở và thành lập chính quyền thuộc địa ở miền Trung Việt Nam."''<ref name=tuanbao /><ref name="xuanay">[https://xuanay.vn/pham-quynh-va-ban-tu-hinh-doi-voi-ong/ Phạm Quỳnh và bản án tử hình đối với ông], Tạp chí Xưa và Nay số 269 (10/2006)</ref>
 
Ông Đặng Văn Việt, tham gia lực lượng đi bắt toán biệt kích Pháp, sau này là vị tướng nổi tiếng chiến đấu ở mặt trận Cao Bằng năm 1950, trong hồi ký ''“Hạ cờ triều đình Huế”'' có nói về việc chặn đứng kế hoạch của biệt kích Pháp hòng bắt liên lạc với Phạm Quỳnh như sau<ref name=tuanbao />:
:''“Không nghi ngờ gì nữa – cái phái bộ Đồng Minh nhảy xuống Hiền Sĩ thực chất là một phái bộ thực dân được De Gaulle phái sang để chiếm lại miền Trung, nếu ta chậm 1 – 2 ngày, Casténa sẽ bắt liên lạc được với Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Bảo Đại, chỉ trong một đêm, 500 lính thực dân Pháp đang bị giam ở trường Providence, cộng với lính khố xanh, khố đỏ, khố vàng, với những mật thám cảnh sát cũ còn nguyên vẹn, chúng sẽ đủ sức chiếm lại toàn bộ Kinh đô Huế. Rồi sẽ không có việc Bảo Đại thoái vị, không có lễ nhận ấn tín, không có việc Vĩnh Thụy ra Hà Nội làm cố vấn Chính phủ, mà Huế sẽ lại là Thủ đô của cả nước lúc bấy giờ. Nếu những việc ấy xảy ra, sẽ đều ảnh hưởng đến toàn quốc, Cách mạng sẽ không lường hết sự phải trả giá, xương sẽ chất thành núi, máu sẽ nhuộm đỏ nước sông Hương, cây cỏ trên núi Ngự Bình sẽ xơ xác trong tro bụi?!”''.
 
Khi nhóm bắt biệt kích Pháp về đến Huế, một đại diện Thanh niên Tiền tuyến được cử đến gặp ông [[Trần Hữu Dực]] để báo cáo kết quả. Ông Trần Hữu Dực rất vui mừng và hết lời khen ngợi chiến công đó: ''“Chỉ cần ta bị chậm 1-2 ngày là bọn Pháp nhảy dù xuống Hiền Sĩ có thể liên lạc được với Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, các lực lượng Pháp ở hải ngoại, ở nội địa. Bọn Pháp 500 tên đang bị giam giữ ở trường Providence, bọn Nhật ở Mang Cá có 4.500 tên. Chỉ cần một đêm là chúng có thể trở lại các công sở, nắm chắc trong tay các lực lượng vũ trang, lực lượng đàn áp phản động. Nếu lúc ấy mà ta phát động tổng khởi nghĩa, cướp chính quyền thì có thể hàng ngàn, vạn sinh mệnh đồng bào sẽ ngã gục dưới họng súng của quân thù. Các anh Thanh niên Tiền tuyến đã lập được một chiến tích lớn đáng được ghi nhớ”''.<ref>[http://tuanbaovannghetphcm.vn/bat-gon-va-tieu-diet-mot-phai-doan-quan-su-cua-tuong-de-gaulle-do-castella-chi-huy-nhay-xuong-co-do-hue-8-1945/ Bắt gọn và tiêu diệt một phái đoàn quân sự của tướng De Gaulle do Castella chỉ huy nhảy xuống cố đô Huế (8/1945)], Tuần báo Văn nghệ TpHCM, 16/5/2018</ref>
 
==Các nghiên cứu==
Phạm Quỳnh được coi là người đi tiên phong trong việc dùng tiếng Việt để viết lý luận. [[Dương Quảng Hàm]] đánh giá các công trình của ông là đã "''luyện cho tiếng ta có thể diễn dịch được các lý thuyết, các ý tưởng về triết học, khoa học mới.''"<ref>{{chú thích sách|author=Dương Quảng Hàm|title=Việt Nam văn học sử yếu|year=1941}}</ref> Ông có công biên dịch các tác phẩm tiếng Pháp, giới thiệu các tác phẩm nổi tiếng Đông - Tây đồng thời gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc<ref>[http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/pham-quynh-va-nhung-dong-gop-cua-ong-cho-van-hoa-viet-nam Phạm Quỳnh và những đóng góp của ông cho văn hóa Việt Nam], 4/1/2015, Văn hóa Nghệ An</ref>.
 
Trước đây, nhiều người phê phán ông cộng tác với các chủ trương chính trị của thực dân Pháp, là tay sai của Pháp cài vào triều đình nhà Nguyễn. Ông bị coi là "ru ngủ" thanh niên trí thức trong cái "hồn nước" mơ hồ, khiến họ đi chệch khỏi chí hướng làm cách mạng chống Pháp. Quan điểm chính thống của Nhà nước Việt Nam coi ông là tay sai đắc lực của Pháp.<ref>[http://www.khamphahue.com.vn/vanhoa-dulich-Hue/l-3/C1D436B5-C476-4D26-92C3-86473C9723C5/15570-con-nguoi-pham-quynh.aspx Con người Phạm Quỳnh], TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỔNG HỢP KHÁM PHÁ HUẾ, 20/10/2014</ref> Tuy chủ trương hợp tác với Pháp để chấn hưng quốc gia là một xu hướng chính trị được một số trí thức đương thời ủng hộ như [[Phan Châu Trinh]], [[Bùi Quang Chiêu]]... nhưng riêng Phạm Quỳnh lại làm quan cho triều đình nhà Nguyễn và có quan hệ mật thiết với Toàn quyền Pháp, nhiều nghiên cứu và tờ báo của Phạm Quỳnh nhận tiền tài trợ của Pháp nên bị người đương thời chỉ trích nặng nề, kể cả Phan Châu Trinh cũng phê phán ông, vua Bảo Đại thì xem ông là người của Pháp.
 
Gần đây, tại Việt Nam có một số đánh giá khác về khía cạnh văn hóa (không xét đến tư tưởng chính trị thân Pháp) đối với Phạm Quỳnh. ''Từ điển Văn học bộ mới'' (2004) coi ông là người ôm ấp việc canh tân văn hóa đất nước. Kể từ năm [[2000]], nhiều tác phẩm của Phạm Quỳnh đã được tái bản tại Việt Nam.
 
Ngày 28 tháng 5 năm 2016, hội đồng [[Phạm (họ)|họ Phạm Việt Nam]] phối hợp cùng gia đình nhạc sĩ [[Phạm Tuyên]] tổ chức lễ khánh thành công trình trùng tu mộ phần và dựng tượng Thượng Chi Phạm Quỳnh tại [[Thành phố Huế]]. Bức tượng bán thân Phạm Quỳnh do chính người cháu ngoại là [[kiến trúc sư]] [[Tôn Thất Đại]] thiết kế với chiều cao 60&nbsp;cm, bề ngang 50&nbsp;cm, được đặt ở bục cao gần 2m nằm ngay sau ngôi mộ ông ở trước chùa Vạn Phước (phường [[Trường An]], [[Thành phố Huế]]). Phía trước bia mộ được ốp tấm bia đá đen khắc ghi câu nói nổi tiếng của ông: “''[[Truyện Kiều]] còn tiếng ta còn. Tiếng ta còn nước ta còn''”.<ref>{{Chú thích web|url=http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/20160529/khanh-thanh-tuong-nha-van-hoa-pham-quynh/1109326.html|tiêu đề=Khánh thành tượng nhà văn hóa Phạm Quỳnh}}</ref>
 
==Tác phẩm==
Ông là tác giả và dịch giả nhiều bài viết và sách văn học, triết học, cách ngôn, ngụ ngôn, tuồng hát tiếng Pháp dịch ra tiếng Việt và tùy bút. Gần như toàn bộ các tác phẩm của ông đều đăng trên tạp chí Nam Phong. Nhiều bài sau đó in lại thành sách do Đông Kinh ấn quán ở Hà Nội xuất bản. Phạm Quỳnh để lại hàng trăm tác phẩm sáng tác, nghiên cứu, biên khảo và dịch thuật gồm nhiều lĩnh vực như triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý, văn học, nghệ thuật, báo chí, trong đó có những tác phẩm chủ yếu như Văn minh luận, Lịch sử thế giới, Chính trị nước Pháp, Văn học sử Pháp, Phật giáo lược khảo, Người quân tử trong đạo Nho, Tục ngữ ca dao, Việt Nam thi ca, Khảo về Truyện Kiều, Khảo về chữ quốc ngữ, Hán Việt văn tự... Về nghiên cứu lý thuyết văn chương, có thể coi Khảo về tiểu thuyết (in rải rác trên báo, mà chủ yếu là Nam Phong, từ năm 1922, in thành sách 1925) là công trình lý luận văn học đầu tiên của nước ta; các tác phẩm Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam Kỳ, Pháp du hành trình nhật ký là những phóng sự đầu tiên của văn học hiện đại.<ref>[http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c376/n25771/Nhan-dien-lai-Nam-Phong-tap-chi.html Nhận diện lại Nam Phong tạp chí], Tạp chí Sông Hương - Số 341 (T.07-17)</ref>
 
===Dịch thuật===
Hàng 146 ⟶ 162:
 
===Khảo luận===
Phần quan trọng nhất trong các tác phẩm của Phạm Quỳnh là các tác phẩm khảo cứu.{{fact|date=7-2014}} Ông nghiên cứu trong các sách chữ nho, sách tiếng Pháp, và viết lại những bài chuyên khảo bằng tiếng Việt. Có ba ngành ông chú trọng, là:
*Các học thuyết Âu Tây, như trong ''Văn minh luận,'' ''Khảo về chính trị nước Pháp,'' ''Lịch sử và học thuyết của [[Jean-Jacques Rousseau|Rousseau]],'' ''Lịch sử và học thuyết của [[Montesquieu]],'' ''Lịch sử và học thuyết của [[Voltaire]]'', v.v..
*Học thuật Á Đông, những bài về triết học và tôn giáo Á Đông như ''Phật giáo lược khảo'', ''Cái quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng'', v.v..
*Văn hóa Việt Nam, với chủ đề trải rộng từ ''Tục ngữ ca dao'', tới ''Việt Nam thi ca'', tới ''Văn chương trong lối hát ả đào''.
Nhiều tác phẩm của ông liên kết những học thuật Âu Tây và phân tích, so sánh chúng với các khái niệm quen thuộc của người Việt Nam. Như trong bài ''Cái quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng'' ông có phần phân tích và so sánh giữa quan niệm người quân tử của đạo Khổng và người "chính nhân" (là chữ ông dùng cho ''l'honnête homme'') trong văn hóa Pháp. Hay như ông có những bài ''Văn hóa Pháp đối với tiền đồ nước Nam'' hoặc ''Công cuộc chấn chỉnh quốc gia ở nước Pháp và khôi phục cổ điển ở nước Nam''.
 
Nhiều tác phẩm của ông liên kết những học thuật Âu Tây và phân tích, so sánh chúng với các khái niệm quen thuộc của người Việt Nam. Như trong bài ''Cái quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng'' ông có phần phân tích và so sánh giữa quan niệm người quân tử của đạo Khổng và người "chính nhân" (là chữ ông dùng cho ''l'honnête homme'') trong văn hóa Pháp. Hay như ông có những bài ''Văn hóa Pháp đối với tiền đồ nước Nam'' hoặc ''Công cuộc chấn chỉnh quốc gia ở nước Pháp và khôi phục cổ điển ở nước Nam'', mô tả ảnh hưởng của Pháp đối với văn hóa Việt Nam.
===Văn du ký===
Ông viết nhiều du ký ghi lại những điều quan sát, nhận định, nghị luận trong các chuyến du lịch đi Pháp và đi các vùng đất Việt Nam như:
*''Mười ngày ở Huế'' (1918)
*''Một tháng ở Nam Kỳ'' (1919)
*''Pháp du hành trình nhật ký'' (1922)
 
===Một số tác phẩm chính===
Hàng 171 ⟶ 182:
*''Thượng Chi văn tập'' gồm 5 quyển, Nhà xuất bản Alexandre de Rhodes Hanoi ấn hành năm 1943.
*Tục ngữ - Ca dao (1932) - Đông Kinh ấn quán.
 
===Về sách in sau này ở Việt Nam===
Ngoài ra, ông viết nhiều du ký ghi lại những điều ông quan sát, nhận định, nghị luận trong các chuyến du lịch đi Pháp và đi các vùng đất Việt Nam như:
*''Mười ngày ở Huế'' (1918)
*''Một tháng ở Nam Kỳ'' (1919)
*''Pháp du hành trình nhật ký'' (1922)
 
===Các tác phẩm được tái bản===
Sau khi Việt Nam thực hiện Đổi Mới, Phạm Quỳnh được đánh giá lại, các tác phẩm của ông cũng được tái bản. [[Từ điển bách khoa Việt Nam]] xuất bản năm 2003, tập 3 đã có Mục ''Phạm Quỳnh, Nam Phong'' và có cả mục ''Pháp Việt đề huề'' với lời lẽ trung lập hơn trước. Năm 2004, Từ Điển Văn Học (bộ mới) của nhà xuất bản Thế Giới có mục ''Phạm Quỳnh'' do [[Nguyễn Huệ Chi]] viết và mục ''Nhóm Nam Phong'' do Phương Chi viết. Năm 2005, báo Khoa học và Ứng dụng số 2 đăng bài ''Phạm Quỳnh chủ bút báo Nam Phong'' của Giáo sư Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam. Cũng trong năm này, Tạp chí Nghiên cứu văn học số tháng 7 năm 2005, đăng bài ''Phạm Quỳnh và quá trình tiếp nhận văn hóa phương Tây ở Việt Nam đầu thế kỷ XX''. Cuối năm 2005, báo Tiền Phong Chủ Nhật các số 44, 45 và 46 đăng bài ''Những uẩn khúc trong cuộc đời ông chủ báo Nam Phong''. Tháng 8/2006 tạp chí Công giáo và Dân tộc số 140 đăng bài ''Phạm Quỳnh, người nặng lòng với nước''. Tháng 9/2006, [[tạp chí Xưa và Nay]] số 267, cơ quan của Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, đăng bài ''Người nặng lòng với nước''. Tạp chí Nghiên cứu và phát triển ở Huế, số 3 năm 2006 đăng bài ''Phạm Quỳnh, người nặng lòng với nhà''. Tháng 9/2006, tạp chí Công giáo và Dân tộc lại đăng bài ''Phạm Quỳnh, người nặng lòng với tiếng ta''. Báo Hồn Việt ngày 15/9/2008 có bài ''Ông Phạm Quỳnh là người nặng lòng với nước'' và bài ''Phạm Quỳnh, cuộc phiêu lưu không tránh khỏi bi đát'' vào ngày 17/11/2008. Năm 2010, nhà xuất bản Thanh Niên phát hành cuốn ''Phạm Quỳnh, con người và thời gian'' của tác giả Khúc Hà Linh. Năm 2012, tác nhà xuất bản Thanh Niên tái bản sách này dưới tên ''Phạm Quỳnh trong dòng chảy văn hóa dân tộc''. Năm 2011, nhà xuất bản Công an Nhân dân ấn hành cuốn ''Phạm Quỳnh, một góc nhìn của một người con xứ Huế'' của tiến sĩ sử học Nguyễn Văn Khoan. Sau đó có hai cuộc hội thảo về Phạm Quỳnh ở Hải Dương tháng 6 năm 2010 và Huế vào tháng 8 năm 2012. Năm 2018, [[Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh]] tổ chức lễ trao thưởng cho Phạm Quỳnh với những đóng góp về văn hóa của ông đầu thế kỷ 20.<ref name="phamtuyen">Bài phát biểu của nhạc sĩ Phạm Tuyên nhân dịp tôn vinh Danh nhân văn hóa Phạm Quỳnh Nhạc sĩ Phạm Tuyên tại lễ trao giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh lần XI – 2018, Phạm Tuyên</ref>
 
Năm 2001, nhà xuất bản Văn học tác phẩm ''Mười ngày ở Huế'' của Phạm Quỳnh. Năm 2003, nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây phát hành tuyển tập tác phẩm của Phạm Quỳnh với nhan đề ''Phạm Quỳnh – Luận giải văn học và triết học''. Năm 2004, nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản ''Pháp du hành trình nhật ký'' của Phạm Quỳnh. Tháng 3 năm 2007, nhà xuất bản Trẻ phát hành ''Du ký Việt Nam – Tạp chí Nam Phong 1917-1934''. Năm 2006, nhà xuất bản Văn Học và công ty sách Thời Đại cho tái bản cuốn ''Thượng Chi văn tập'' của Phạm Quỳnh. Cuối năm 2007, nhà xuất bản Tri Thức cho ra mắt ''Phạm Quỳnh – Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922-1932 – Essais 1922-1932''. Trong năm 2007 có nhiều cuộc thảo luận về Phạm Quỳnh. Năm 2011, nhà xuất bản Hội Nhà Văn và Công ty Nhã Nam xuất bản những bài viết cuối đời của Phạm Quỳnh, bao gồm 11 bài tạp văn và 51 bản ông dịch thơ Đỗ Phủ lấy tên chung là Hoa Đường tùy bút.<ref name="phamtuyen"/> Một số tác phẩm của ông đã được tái bản gồm:
 
*Mười ngày ở Huế, Nhà xuất bản Văn học - 2001
*Luận giải Văn học và Triết học, Nhà xuất bản Thông tin, 2001
Hàng 179 ⟶ 200:
*Phạm Quỳnh - Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp, Nhà xuất bản Tri thức, 2007 (gồm những bài diễn thuyết, bài báo ông viết bằng tiếng Pháp từ 1922 đến 1932)
 
Ngoài sáu cuốn xuất bản sau này tại Việt Nam thì còn có cuốn ''Hành trình nhật ký'' in lần thứ hai tại San Jose, Hoa Kỳ vào năm 2002 (in thành sách lần thứ nhất tại Paris năm 1997) gồm các du ký: Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam Kỳ và Pháp du hành trình nhật ký.
===Sách xuất bản gần đây===
Ngoài sáu cuốn xuất bản sau này tại Việt Nam thì còn có cuốn ''Hành trình nhật ký'' in lần thứ hai tại San Jose, Hoa Kỳ vào năm 2002 (in thành sách lần thứ nhất tại Paris năm 1997) gồm các du ký: Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam Kỳ và Pháp du hành trình nhật ký. Sách do bà Phạm Thị Hoàn (sinh 1926) là con gái Phạm Quỳnh đứng bản quyền.{{fact|date=7-2014}}
 
==Câu nói nổi tiếng==
Trong tạp chí Nam Phong, số 86 (năm 1924), Phạm Quỳnh viết:
{{Cquote|''Truyện Kiều còn, tiếng ta còn;''
 
''Tiếng ta còn, nước ta còn.''|200px||''Phạm Quỳnh''}}
 
''Có gì mà lo, có gì mà sợ, còn điều chi nữa mà ngờ''|200px||''Phạm Quỳnh''}}
 
Câu nói này của Phạm Quỳnh có thể diễn giải theo nhiều nghĩa. Nghĩa thông thường là ca ngợi giá trị của truyện Kiều. Nhà văn Mạc Phi cho rằng "''Cần phải thấy rõ âm mưu hiểm độc của thực dân Pháp là làm cho thanh niên, học sinh, sinh viên, trí thức Việt Nam quên tiếng mẹ đẻ, sùng bái tiếng Pháp, sùng bái văn hóa Pháp, coi thường, thậm chí coi khinh di sản văn hóa Việt Nam... việc giữ gìn giá trị to lớn của Truyện Kiều và của tiếng Việt trên tạp chí công khai và hợp pháp Nam Phong của Phạm Quỳnh đã góp phần thức tỉnh ý thức tôn trọng tiếng Việt và di sản văn hóa Việt Nam trong một xã hội đang bị Âu hóa và đồng thời góp phần chống lại âm mưu làm lu mờ văn hóa Việt Nam, tôn thờ mù quáng tiếng Pháp và văn hóa Pháp''<ref name="xuanay"/>". Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, khi đặt trong bối cảnh năm 1924 (nước Việt đang bị Pháp đô hộ) và việc tờ tạp chí Nam Phong vốn do Pháp bảo trợ, có người cho là Phạm Quỳnh viết câu này để ngầm ca ngợi Pháp và "ru ngủ" người Việt, rằng nước Việt vẫn chưa mất nước, nước Pháp không xâm chiếm mà chỉ "bảo hộ" mà thôi<ref>[http://tuanbaovannghetphcm.vn/ngua-non-hau-da-ngua-gia-thao-mai-1/ Ngựa non háu đá ngựa già thảo mai], Tuần báo Văn nghê Tp.HCM, 29/7/2017</ref>. Nguyễn Huy Khánh trong “Khảo luận tiểu thuyết Trung Hoa” cho rằng: ''"Theo ý kiến của nhà “đại văn hào” ấy (chỉ Phạm Quỳnh), truyện Kiều là quốc hồn, quốc túy của nước ta, và vì thế, người Việt Nam chỉ cần “ôm cứng” bộ truyện (tức là bảo vệ chặt chẽ quốc túy quốc hồn) tự nhiên nước ta sẽ còn (nghĩa là không bị mất nước) mà khỏi phải tranh đấu gì (với Pháp) cho mất công."''<ref name="vannghe123"/>
 
== Nhận định ==
*Theo nhạc sĩ [[Phạm Tuyên]], con trai của Phạm Quỳnh, vào mùa thu năm [[1945]], [[Hồ Chí Minh]] đã nói với hai người chị của ông là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức rằng: ''"Cụ Phạm là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này. Con cháu cứ vững tâm đi theo cách mạng"''<ref>Phạm Tuyên, ''[http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=103739&ChannelID=7 Lịch sử sẽ công bằng với cha tôi]'', 04/12/2007</ref>
*[[Hồ Chí Minh]]:
* Trong báo cáo ngày mồng 8 tháng 1 năm 1945 gửi cho đô đốc Decoux và cho Tổng đại diện Mordant, Thống sứ Trung Kỳ của Pháp là Healewyn đã báo cáo về Phạm Quỳnh như sau:
{{Cquote|''Cụ Phạm là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này.''|200px||''Hồ Chí Minh''}}
* Trong báo cáo ngày mồng 8 tháng 1 năm 1945 gửi cho đô đốc Decoux và cho Tổng đại diện Mordant, ông Thống sứ Trung Kỳ Healewyn đã báo cáo về Phạm Quỳnh như sau:
{{Cquote|''"Vị Thượng thư này vốn đã chiến đấu suốt cuộc đời mình bằng ngòi bút và bằng lời nói, không bao giờ bằng vũ khí chống sự bảo trợ của Pháp và cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung Nam) và cho việc người Việt Nam nắm trong tay vận mệnh của chính mình... Những yêu sách của Phạm Quỳnh đòi trở lại việc chấp thuận một chế độ tự trị hoàn toàn cho hai xứ bảo hộ ([[Trung Kỳ]] và [[Bắc Kỳ]]) khước từ chế độ thuộc địa ở [[Nam Kỳ]] và thành lập một quốc gia Việt Nam. Tôi xin lưu ý ngài một điều là, dưới vẻ bề ngoài nhã nhặn và thận trọng, con người đó là một chiến sĩ không lay chuyển nổi cho nền độc lập của Việt Nam và đừng hòng có thể làm dịu những tình cảm yêu nước chân thành và kiên định của ông ta bằng cách bổ nhiệm ông ta vào một cương vị danh dự hoặc trả lương một cách hậu hĩ. Cho tới nay đó là một địch thủ thận trọng nhưng cương quyết chống lại sự đô hộ của nước Pháp và ông ta có thể sớm trở thành một kẻ thù không khoan nhượng...<ref name="baotp"/>"''.|200px||''Thống sứ Trung Kỳ Healewyn''}}
* [[Nguyễn Công Hoan]]:
{{Cquote|''"...'''Phạm Quỳnh''', trái lại chủ trương thuyết lập Hiến. Người Pháp nên thi hành đúng [[Hiệp ước 1884]] nghĩa là chỉ đóng vai trò bảo hộ còn công việc trong nước thì để vua quan người Nam tự đảm nhiệm lấy. Bấy giờ Phạm Quỳnh vào Huế làm quan không phải vì danh. Quốc dân biết tên Phạm Quỳnh hơn nhiều Thượng thư Nam Triều. Mà cũng chẳng phải vì lợi. Đơn cử làm chủ bút Nam Phong, Phạm Quỳnh được cấp 600 đồng một tháng. Món này to hơn lương Thượng thư. Phạm Quỳnh ra làm quan chỉ đổi lấy danh nghĩa Chính phủ Nam Triều đòi Pháp trở lại Hiệp ước 1884. Vậy là một người yêu nước như Phạm Quỳnh sở dĩ phải có mặt trên sân khấu chính trị chẳng qua là một việc miễn cưỡng trái với ý mình để khuyến khích bạn đồng nghiệp làm việc cho tốt hơn chứ thực lòng một người dân mất nước ai không đau đớn ai không khóc thầm. Thế là tôi nghĩ ra được truyện Kép Tư Bền tả một anh kép nổi tiếng về bông lơn đã phải vì giữ tín nhiệm với khán giả mà lên sân khấu nhà hát làm trò cười ngay cái tối cha mình đang hấp hối"<ref name="baotp"/>.|200px||''Nguyễn Công Hoan (Đời viết văn của tôi- Nhà xuất bản Văn học Hà Nội năm 1971).''}}
*Giáo sư Văn Tạo:
{{Cquote|''"'''Phạm Quỳnh''' không có hành vi nào tàn ác với nhân dân, không đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân như nhiều quan lại thời Nguyễn, không ra lệnh bắt bớ tù đày các nhà yêu nước (...). Nhưng mặt khác ông lại có công chuyển tải văn hóa Đông - Tây trên văn đàn, báo giới Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm cho ngôn ngữ, văn hóa dân tộc Việt Nam thời đầu thế kỷ XX, công lao đó đáng được ghi nhận... Điều đáng chê trách nhất ở ông là đã ra làm chủ bút cho báo Nam Phong do tên trùm mật thám Pháp [[Louis Marty]] chủ trì. Với chức danh đó, ông không thể không có sai lầm làm hại đến quyền lợi dân tộc"''.|200px||''Giáo sư Văn Tạo''}}
*Giáo sư [[Phan Văn Dật]], [[Đại học Huế]] nói<ref name=tuanbao />:
{{Cquote|''"Theo tôi, qua những hành động bất nhất của Phạm Quỳnh như lúc đầu thì chửi Nam triều, rồi sau lại ca ngợi, qua Pháp ghi vào sổ vàng ở Marseille, ông đã chế nhạo vua Khải Định. Phạm Quỳnh là người có tài học nhưng không có thái độ trí thức"''.|200px||''Giáo sư Phan Văn Dật''}}
*Ông [[Phạm Khắc Hòe]], nguyên Tổng lý ngự tiền văn phòng Nhà Nguyễn nói:
{{Cquote|''"Phạm Quỳnh là một người xấu, bị mọi tầng lớp nhân dân oán ghét và giới trí thức khinh bỉ… cho nên nếu nhà vua thực tâm vì dân, vì nước thì không nên dùng Phạm Quỳnh nữa... (nói với vua Bảo Đại)''
 
''Tôi không có thù oán cá nhân gì với Phạm Quỳnh và tôi nghĩ rằng nếu hắn có tội, thì sẽ bị nhân dân trừng trị. Khi nghĩ như vậy, tôi không ngờ rằng chỉ khoảng một tháng sau, Phạm Quỳnh đã bị đền tội trước nhân dân"''.|200px||''Phạm Khắc Hòe''}}
*Ông [[Trần Đình Nam]], Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong chính phủ Trần Trọng Kim nói về Phạm Quỳnh như sau<ref name=tuanbao />:
{{Cquote|''"Sau đảo chính 9-3-1945, khi tiếp thu Bộ Lại của ông Phạm Quỳnh, cụ thấy một tủ sách niêm phong kỹ của viên cố vấn chánh trị người Pháp, cụ ra lệnh mở ra và đã đọc những tài liệu ghi các việc người Pháp chỉ thị cho Phạm Quỳnh thi hành và họ đã dùng những chữ rất khinh bỉ để gọi Phạm Quỳnh như một tay sai dễ bảo, trung thành. Cụ không muốn nói rõ những chữ đó là gì, cũng không muốn kể lại những việc Pháp ra lệnh cho Phạm Quỳnh làm là những việc gì, nhưng cụ có nói một câu để tóm lược tất cả: đó là những việc làm của một người phản quốc. Thế là đủ hiểu và cụ nói tiếp, từ đó tôi hoàn toàn thất vọng và khinh Phạm Quỳnh"''.|200px||''Phạm Khắc Hòe''}}
 
*Cụ [[Huỳnh Thúc Kháng]] làm bài thơ ''"Ông Táo"'', mỉa mai Phạm Quỳnh vì hợp tác với Pháp<ref name=tuanbao />:
{{Cquote|Cục đất ngày xưa nó thế nào<br>Nay thành ông Táo chức quyền cao<br>Khéo mang mặt nhọ vênh vang thế<br>Chẳng khổ lưng còm khúm núm sao?<br>Ba bữa giữa ngày cho địa chủ<br>Quanh năm kiếm chuyện mách Thiên Tào<br>Một mai đất lại hoàn ra đất<br>Cái đãy xôi chè giá đáng bao!|150px||Ông Táo ám chỉ Phạm Quỳnh, "Thiên Tào" ám chỉ người Pháp}}
 
*Theo sách “Lược truyện các tác giả Việt Nam” ghi rằng: ''“Phạm Quỳnh là một tên tay sai đắc lực của đế quốc Pháp trên lĩnh vực văn hóa, một tên Việt gian lợi hại, chống cách mạng"''<ref>[http://tuanbaovannghetphcm.vn/pham-quynh-duoi-cai-nhin-cua-phan-chau-trinh-so-493/ Phạm Quỳnh dưới cái nhìn của Phan Châu Trinh], Tuần báo Văn nghệ TP.HCM, 17/4/2018</ref>.
 
== Gia đình ==
Hàng 207 ⟶ 244:
*Người con thứ bảy là cố Giáo sư [[Phạm Khuê]] (sinh năm Ất Sửu 1925), Nhà giáo nhân dân, nguyên Viện trưởng Viện Lão khoa, nguyên Chủ tịch Hội Người cao tuổi Việt Nam; Đại biểu Quốc hội khóa X.
*Người con thứ tám là Phạm Thị Hoàn (sinh năm Mậu Thìn 1928), từng là ca sĩ. Chồng bà là nhạc sĩ Lương Ngọc Châu (cháu nội chí sĩ Lương Văn Can), tác giả những ca khúc như ''Tiếng hát lênh đênh, Một đi không trở về''...
*Người con thứ chín là nhạc sĩ [[Phạm Tuyên]] (sinh đầu năm 19301929, tuổi Kỷ Tỵ), Chủ tịch Hội Âm nhạc Hà Nội.
*Người con thứ mười là Phạm Thị Diễm (Giễm) sinh năm Tân Mùi 1931, định cư tại [[Pháp]].
*Người con thứ mười một là Phạm Thị Lệ sinh năm Giáp Tuất 1934, định cư tại Pháp.
Hàng 214 ⟶ 251:
 
==Ngày sinh và mất==
Theo ông Nguyễn Thọ Dực, trưởng Ban Cổ văn, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa chính quyền Việt Nam Cộng hòa thì hồi làm việc ở triều đình Huế, ông có được Phạm Quỳnh cho biết ngày sinh để nhờ lấy số tử vi là ngày 13 tháng 12 năm Nhâm Thìn, tức 30/1/1893.
===Về ngày sinh của Phạm Quỳnh===
Về ngày mất thì có nhiều thông tin khác nhau:
Theo ông Nguyễn Thọ Dực, trưởng Ban Cổ văn, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa chính quyền Việt Nam Cộng hòa thì hồi làm việc ở triều đình Huế, ông có được Phạm Quỳnh cho biết ngày sinh để nhờ lấy số tử vi là ngày 13 tháng 12 năm Nhâm Thìn, tức 30/1/1893. Không ai cho ngày sinh sai để lấy số tử vi cả. Cho nên, ngày này là chính xác nhất trong số các ngày sinh đã được biết của Phạm Quỳnh khai ở nơi này nơi khác.{{fact|date=7-2014}}
*Sách ''"Từ điển Văn học bộ mới"'' (2004), ghi Phạm Quỳnh mất ngày [[20 tháng 8]] năm 1945.
 
*Một số tài liệu ghi Phạm Quỳnh mất ngày [[23 tháng 8]] năm 1945, đúng ngày có người mời ông đến chính quyền [[Việt Minh]] làm việc.
===Về ngày mất của Phạm Quỳnh===
*Sách ''"Từ điển Văn học bộ mới"'' (2004), ghi mất ngày [[20 tháng 8]] năm 1945.
*Một số tài liệu ghi mất ngày [[23 tháng 8]] năm 1945, đúng ngày có người mời ông đến chính quyền [[Việt Minh]] làm việc.
*Một số tài liệu chép ông mất vào sáng ngày [[6 tháng 9]] năm [[1945]] (tức ngày 1 tháng 8 năm [[Ất Dậu]]; sau 14 ngày bị Việt Minh bắt).
*Năm 1956, hai con của Phạm Quỳnh là bà Phạm Thị Hảo (1920) và Phạm Tuân (sinh năm 1936) hiện định cư tại Hoa Kỳ được theo đoàn tìm mộ cha con Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Huân, anh và cháu Ngô Đình Diệm để tìm di hài cha. Theo lời các nhân chứng thì Phạm Quỳnh bị hạ sátmất vào đêm 6 rạng ngày 7 tháng 9 năm 1945, khoảng 1 giờ sáng, có trăng câu liêm, tức ngày 1 tháng 8 năm Ất Dậu.{{fact|date=7-2014}}
 
==Xem thêm==
Hàng 230 ⟶ 265:
 
== Chú thích==
{{Tham khảo|2}}
 
==Liên kết ngoài==
{{wikisource tác giả|Phạm Quỳnh}}
*[http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=27635&ChannelID=7 Những uẩn khúc trong cuộc đời ông chủ báo Nam Phong (1)] (gồm 3 kỳ)
*[http://phamquynh.wordpress.com Blog chuyên viết về Phạm Quỳnh, cung cấp nhiều tư liệu chưa được biết đến ]
*[http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=27635&ChannelID=7 Những uẩn khúc trong cuộc đời ông chủ báo Nam Phong (1)]
*[http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=26729&ChannelID=7 Những uẩn khúc trong cuộc đời ông chủ báo Nam Phong (2)]
*[http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=28469&ChannelID=7 Những uẩn khúc trong cuộc đời ông chủ báo Nam Phong (3)]
*[http://tienphongonline.com/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=32173&ChannelID=7 Thông tin về ngày mất của Phạm Quỳnh]
*[http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=32173&ChannelID=7\ Về cái chết của ông chủ bút tạp chí Nam Phong] [http://www.hanoimoi.com.vn/vn/35/69544/ tại Hà Nội mới online]
*[http://vanvn.net/News.Asp?cat=28&scat=&id=1229 Nhãn quan văn hóa của Phạm Quỳnh, qua du ký]
{{Kiểm soát tính nhất quán}}
 
{{Thời gian sống|sinh=1892|mất=1945}}
 
[[Thể loại:Quan nhàNhà Nguyễn]]
[[Thể loại:Nhà báo Việt Nam]]
[[Thể loại:Người chủ báo]]
Hàng 250 ⟶ 284:
[[Thể loại:Viện Viễn Đông Bác cổ]]
[[Thể loại:Chính khách Việt Nam bị ám sát]]
[[Thể loại:Nhà cách mạng Việt Nam]]
[[Thể loại:Sinh 1892]]
[[Thể loại:Mất năm 1945]]