Khác biệt giữa bản sửa đổi của “CKC”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của 14.190.145.175 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của 171.224.181.172 Thẻ: Lùi tất cả |
n clean up, replaced: . → . using AWB |
||
Dòng 23:
|part_length={{convert|520|mm|abbr=on}},<ref name="pdf.textfiles" /><br> M59/66: {{convert|558.8|mm|abbr=on}}
|feed=Kẹp đạn 10 viên<ref name="pdf.textfiles" />
|sights=Điểm ruồi hoặc ống ngắm quang học (nếu có)
|variants=Kiểu 56 của Trung Quốc; PAP của Yugoslavian; SKS của Romania; SKS của Albania; SKS của Đông Đức; SKS của Việt Nam; SKS của Triều Tiên
|number=15,000,000+<ref name="hogg2002"/>
Dòng 37:
Trước [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh thế giới thứ II]], quân đội nhiều nước nhận ra rằng các mẫu súng trường hiện có (như [[Súng trường Mosin|Mosin-Nagant]], [[Lee-Enfield]] hay [[Karabiner 98k|Gewehr 98]]), dù đã được hiện đại hóa bằng cắt ngắn nòng so với phiên bản trước đó nhưng vẫn quá dài và nặng nề khi sử dụng. Tầm bắn của những loại súng này là cực kì thừa thãi - có thể lên tới 1000m (tương đương với các khẩu [[LMG|trung liên]] và [[Súng máy hạng nặng|đại liên]] thời bấy giờ), quá nhiều cho hỏa lực đại trà của bộ binh trong khi hầu hết những trận đánh xảy ra với tầm thị lực của người lính từ 100-300m. Chỉ có những [[xạ thủ bắn tỉa]] mới có thể tận dụng hết khả năng của những khẩu súng trường như thế này.
Giải pháp của người Mỹ đưa ra là khẩu [[M1 Carbine]], sử dụng đạn
Liên Xô đề ra giải pháp gần giống với Đức: họ cắt ngắn đạn 7,62x54mmR trở thành đạn 7,62x41mm (và sau đó là M43 [[7,62×39mm|7,62x39mm]] cực kì nổi tiếng), nhưng vẫn giữ nguyên loại thuốc đạn trụ cứng của súng trường. Ý tưởng này đã có từ lâu trong quân đội Nga Hoàng với khẩu [[Súng trường tự động Fedorov|Fedorov Avtomat]], tuy nhiên việc sử dụng súng bị ngưng do thiếu nguồn cung đạn 6,5x50mm từ Nhật Bản. Và ngay trong năm 1943, một cuộc thiết kế súng trường carbine tiêu chuẩn cho [[Hồng Quân|Hồng Quân Xô Viết]] được tiến hành để sử dụng loại đạn M43 mới này.
Dòng 44:
Simonov tiến hành sửa lại khẩu [[AVS-36]] trước đó của mình: thay đổi loại nòng và kích cỡ các chi tiết nằm bên trong hộp khóa nòng. Ông cũng sử dụng hộp đạn gắn cứng với các kẹp đạn thay cho hộp tiếp đạn trên thiết kế AVS-36 trước đó (tuy nhiên, trớ trêu thay là các phiên bản sau cùng của СКС sử dụng hộp tiếp đạn thay cho kẹp đạn). Súng chiến thắng trước thiết kế của [[Mikhail Timofeyevich Kalashnikov|Mikhail Kalashnikov]], thử nghiệm trên chiến trường trong năm 1945 với phát xít Đức; sau đó sản xuất đại trà từ năm 1949 tới khi bị thay thế hoàn toàn vào năm 1959. Hồng Quân đình chỉ việc sản xuất SKS vào năm 1965 vì Liên Xô đã phát triển được công nghệ sản xuất AKM để thay cho SKS. Liên Xô cung cấp giấy phép cũng như công nghệ sản xuất SKS cho rất nhiều nước XHCN như [[CHDCND Triều Tiên]], [[Trung Quốc]], [[Đông Đức]], [[Nam Tư]],...
== Thiết kế ==
[[
СКС sử dụng cơ chế trích khí ngắn (gần giống với súng trường chống tăng [[PTRS-41]] và AVS-36 của nhà thiết kế Simonov). Thoạt đầu, viên đạn đầu tiên được khai hỏa bằng cơ cấu cò súng. Một lượng khí thuốc súng được trích ra và đẩy vào ống trích khí, tạo lực đẩy lùi cụm cơ cấu móc đạn. Cụm cơ cấu này lùi về sau và ngay lập tức đẩy vỏ đạn cũ ra ngoài, nén lò xo phía sau lại rồi bật trở lại nhờ lực đàn hồi và móc viên đạn tiếp theo vào bệ khóa nòng, sẵn sàng cho phát bắn kế.[[Tập tin:SKS Ladestreifen.jpg|nhỏ|329x329px|Kẹp đạn 10 viên của CKC]]
|