Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sư đoàn 5 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 14:
}}
 
'''Sư đoàn 5 Bộ binh''',<ref>VàoThời điểm năm 1965, cũng có một Sư đoàn khác của Mặt trận Giải phóng Miền Nam thành lập ở Bà Rịa trùng phiên hiệu với Sư đoàn 5 Bộ binh. Tuy nhiên, đơn vị này tồn tại không lâu vì bị quá nhiều tổn thất</ref> là một trong 3 đơn vị chủ lực quân trực thuộc [[Quân đoàn III (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn III và Quân khu 3]] của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]. Đây là một đơn vị quân đội lớn, từng tham dự nhiều trận quan trọng trong [[Chiến tranh Việt Nam]]. Lãnh thổ hoạt động và trách nhiệm bảo vệ là khu vực các tỉnh phía đông của miền Nam [[Việt Nam Cộng hòa]]. Nơi đây có chiến khu D là mật khu của Lực lượng mang danh [[Quân giải phóng miền Nam|Quân giải phóng]], là thành phần của [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]].
'''SƯ ĐOÀN 5 BỘ BINH
*Từ năm 1972, Bộ tư lệnh Sư đoàn được đặt tại Căn cứ Lai Khê<ref>Vị trí căn cứ Lai Khê nằm ở phía bắc quận Bến Cát, Bình Dương, trước đó là nơi đồn trú của một đơn vị quân đội Mỹ cấp Sư đoàn.</ref>, vị trí này cũng là Hậu cứ của Sư đoàn cho đến tháng 4/1975.
*''Bản Doanh: Căn cứ Lai Khê, Bình Dương''<ref>Nơi đặt Bộ Tư lệnh Sư đoàn. Còn gọi là Hậu cứ.</ref>
 
'''Sư đoàn 5 Bộ binh''',<ref>Vào năm 1965, cũng có một Sư đoàn khác của Mặt trận Giải phóng Miền Nam thành lập ở Bà Rịa trùng phiên hiệu với Sư đoàn 5 Bộ binh. Tuy nhiên, đơn vị này tồn tại không lâu vì bị quá nhiều tổn thất</ref> là một trong 3 đơn vị chủ lực quân trực thuộc [[Quân đoàn III (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn III và Quân khu 3]] của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]. Đây là một đơn vị quân đội lớn, từng tham dự nhiều trận quan trọng trong [[Chiến tranh Việt Nam]]. Lãnh thổ hoạt động và trách nhiệm bảo vệ là khu vực các tỉnh phía đông của miền Nam [[Việt Nam Cộng hòa]]. Nơi đây có chiến khu D là mật khu của Lực lượng mang danh [[Quân giải phóng miền Nam|Quân giải phóng]], là thành phần của [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]].
 
==Lịch sử hình thành==
Hàng 26 ⟶ 24:
Sau Hiệp định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954, Sư đoàn 3 Sơn cước di chuyển vào Nam và đồn trú tại Sông Mao, sau đó giải tán và dùng làm nòng cốt để thành lập Sư đoàn 6. Đến gần cuối năm 1955, trong vòng 3 tháng Sư đoàn thay đổi phiên hiệu 3 lần để phù hợp với tổ chức và trang bị. Ngày 1 tháng 8 đổi thành Sư đoàn 6 Dã chiến, ngày 1 tháng 9 lại đổi thành Sư đoàn Dã chiến số 41 và ngày 1 tháng 10 trở thành Sư đoàn 3 Dã chiến.<ref>Sự vụ văn thư số 3975/TTM/1/1/SC ngày 17 tháng 9 năm 1955.</ref>
 
Ngày 1 tháng 12 năm 1958, Sư đoàn Dã chiến số 3 được tăng cường thêm 2 Trung đoàn địa phương 130 và 162, đổi tên lần cuối cùng thành Sư đoàn 5 Bộ binh. Sau đó di chuyển về miền Đông Nam phần đảm trách vùng hoạt động mới gồm lãnh thổ các tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long. Ban đầu đặt bản doanh tại Phú Lợi, Thị xã Thủ Dầu Một, sau chuyển Bộ Tư lệnh lên Lai Khê (là căn cứ do Quân đội Mỹ để lại) thuộc quận Bến Cát cho đến tháng 4 năm 1975.<ref>Cả hai căn cứ Phú Lợi và Lai Khê đều thuộc tỉnh Bình Dương.</ref>
 
Nhiệm vụ của Sư đoàn 5 không kém phần quan trọng so với các Sư đoàn bạn thuộc Quân đoàn III nói riêng và đối với Quân lực Việt Nam Cộng hòa nói chung. Sư đoàn có trọng trách bảo vệ và an ninh tuyệt đối vùng biên cương, vì địa bàn hoạt động của Sư đoàn (giáp ranh với nước bạn Campuchia) là cửa ngõ phía bắc của Thủ Đô Sài Gòn.