Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tiếp tuyến”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của 2405:4800:1A0F:8145:ADEF:8880:93C2:C166 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của TuanminhBot
Thẻ: Lùi tất cả
n →‎Lịch sử: clean up, General fixes, replaced: → using AWB
Dòng 8:
Tương tự như vậy, mặt phẳng tiếp tuyến của mặt cong tại một điểm nhất định là mặt phẳng "chỉ chạm vào" mặt cong tại điểm đó. Khái niệm tiếp tuyến là một trong những khái niệm cơ bản nhất trong hình học vi phân và đã được tổng quát hóa rộng rãi.
==Lịch sử==
[[Euclid]] vài lần nói đến tiếp tuyến (ἐφαπτομένη) của một đường tròn trong quyển III của ''Elements'' (khoảng 300 TCN).<ref>{{citechú thích web|last1=Euclid|title=Euclid's Elements|url=http://aleph0.clarku.edu/~djoyce/elements/bookIII/bookIII.html|accessdate=1 June 2015}}</ref> Trong tác phẩm ''Conics'' (khoảng năm 225 TCN), [[Apollonius của Perga|Apollonius]] định nghĩa một đường tiếp tuyến như một đường thẳng sao cho không có đường thẳng nào khác có thể đứng giữa nó và đường cong.<ref name="Shenk">{{citechú thích web|last1=Shenk|first1=Al|title=e-CALCULUS Section 2.8|url=http://math.ucsd.edu/~ashenk/Section2_8.pdf|pages=2.8|accessdate=1 June 2015}}</ref>
 
[[Archimedes]] (khoảng 287 - 212 TCN) đã tìm ra tiếp tuyến với [[đường xoắn ốc Archimedes]] bằng cách xem xét đường đi của một điểm di chuyển dọc theo đường cong<ref name="Shenk"/>.
 
Trong thập niên 1630 [[Fermat]] phát triển kỹ thuật [[adequality]] để tính tiếp tuyến và các vấn đề khác trong vi phân và sử dụng cách tính này để tính toán tiếp tuyến cho hình parabol. Kỹ thuật adequality tương tự như tính sự khác biệt giữa <math>f(x+h)</math>và <math>f(x)</math> và chia nó cho <math>h</math>. Độc lập với Fermat, [[Descartes]] cũng sử dụng [[phương pháp chuẩn hóa]] dựa trên quan sát rằng bán kính của một vòng tròn luôn luôn chuẩn hóa với đường tròn.<ref>{{citechú bookthích sách|last=Katz|first=Victor J.|year=2008|title=A History of Mathematics|edition=3rd|publisher=Addison Wesley|isbn=978-0321387004|page=510}}</ref>
 
Những phương pháp này dẫn đến sự phát triển của [[vi phân]] trong [[thế kỷ 17]]. Nhiều người đã đóng góp, và [[Gilles de Roberval|Roberval]] phát hiện ra một phương pháp tổng quát cho việc vẽ tiếp tuyến, bằng cách xem xét một đường cong như một điểm di chuyển mà chuyển động của nó là kết quả của một số chuyển động đơn giản<ref>{{cite journal|last=Wolfson|first=Paul R.|year=2001|title=The Crooked Made Straight: Roberval and Newton on Tangents| journal=The American Mathematical Monthly | volume=108 | number=3 | pages=206–216 | doi=10.2307/2695381}}</ref>. [[René-François de Sluse]] và [[Johannes Hudde]] đã tìm ra thuật toán đại số để tìm ra các đường tiếp tuyến.<ref>{{citechú bookthích sách|last=Katz|first=Victor J.|year=2008|title=A History of Mathematics|edition=3rd|publisher=Addison Wesley|isbn=978-0321387004|pages=512–514}}</ref> Những phát triển sau đó bao gồm những thành tựu của [[John Wallis]] và [[Isaac Barrow]], đã dẫn đến lý thuyết của [[Isaac Newton]] và [[Gottfried Leibniz]].
 
Một định nghĩa năm 1828 của tiếp tuyến là "đường thẳng chạm vào đường cong, nhưng không cắt nó".<ref>Noah Webster, ''American Dictionary of the English Language'' (New York: S. Converse, 1828), vol. 2, p. 733, [https://archive.org/stream/americandictiona02websrich#page/n733/mode/2up]</ref> Định nghĩa cũ này làm cho [[điểm uốn]] của đường cong không có tiếp tuyến. Định nghĩa này đã bị loại bỏ và định nghĩa hiện đại tương đương với định nghĩa của Leibniz, người đã xác định tiếp tuyến như một đường thẳng nối một cặp điểm gần nhau vô hạn trên đường cong.