Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hôn nhân”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: . < → .< (7) using AWB
Dòng 14:
Hành động của hôn nhân thường tạo ra [[quy phạm]] nghĩa vụ hoặc pháp lý giữa các cá nhân liên quan, và bất kỳ con cái mà hôn nhân tạo ra hoặc được nhận nuôi. Về mặt công nhận pháp lý, hầu hết các nước có chủ quyền và vùng lãnh thổ khác hạn chế hôn nhân chỉ với các cặp vợ chồng [[Dị tính luyến ái|dị tính]] và một số ít các quốc gia cho phép đa phu đa thê, [[tảo hôn]], và [[hôn nhân cưỡng bức]]. Trong thời hiện đại, một số quốc gia ngày càng phát triển, chủ yếu là các quốc gia có nền dân chủ phát triển, đã dỡ bỏ lệnh cấm và đã thiết lập sự công nhận hợp pháp cho các cuộc hôn nhân của các cặp vợ chồng [[Hôn nhân khác tôn giáo|khác tôn giáo]], [[Hôn nhân khác chủng tộc|chủng tộc]] và [[Hôn nhân đồng giới|đồng giới]]. Ở một số khu vực, tảo hôn và chế độ đa thê có thể xảy ra bất chấp luật pháp quốc gia chống lại hành vi này.
 
Từ cuối thế kỷ XX, những thay đổi xã hội lớn ở các nước phương Tây đã dẫn đến những thay đổi về nhân khẩu học của hôn nhân, với tuổi khi kết hôn đầu tiên ngày càng tăng, ít người kết hôn và nhiều cặp vợ chồng chọn [[Sống thử|sống chung]] hơn là kết hôn. Ví dụ, số lượng các cuộc hôn nhân ở châu Âu đã giảm 30% từ năm 1975 đến năm 2005.<ref>Vucheva, Elitsa. (ngày 30 Julytháng 7 năm 2013) [http://euobserver.com/social/27161 / Social Affairs / Europeans marry older, less often]. Euobserver.com. RetrievedTruy oncập ngày 5 Septembertháng 9 năm 2013.</ref>
 
Trong lịch sử, trong hầu hết các nền văn hóa, phụ nữ có chồng có rất ít quyền của riêng họ, được xem xét, cùng với con cái của gia đình, tài sản của người [[chồng]]; như vậy, họ có thể không sở hữu hoặc tài sản thừa kế, hoặc đại diện cho bản thân một cách hợp pháp. Ở châu Âu, Hoa Kỳ và các nơi khác trong [[Nước công nghiệp|các nước phát triển]], bắt đầu từ cuối thế kỷ 19, hôn nhân đã trải qua những thay đổi pháp lý dần dần, nhằm cải thiện quyền của người vợ. Những thay đổi này bao gồm việc cho người vợ có định danh pháp luật của chính họ, bãi bỏ quyền của người chồng được cai quản về mặt thể xác của vợ, trao quyền sở hữu cho vợ, tự do hóa luật [[ly hôn]], tạo cho người vợ [[quyền sinh sản]] của họ và cần có sự đồng ý của [[vợ]] khi quan hệ tình dục. Những thay đổi này đã xảy ra chủ yếu ở [[Thế giới phương Tây|các nước phương Tây]]. Trong thế kỷ 21, tiếp tục có những tranh cãi về tình trạng pháp lý của phụ nữ đã kết hôn, sự chấp nhận hợp pháp hoặc khoan hồng đối với bạo lực trong hôn nhân (đặc biệt là [[bạo lực tình dục]]), phong tục hôn nhân truyền thống như [[của hồi môn]] và [[giá cô dâu]], [[hôn nhân cưỡng bức]], [[tuổi kết hôn]] và hình sự hóa các hành vi đồng thuận như [[Tình dục trước hôn nhân|quan hệ]] [[Ngoại tình|tình dục]] [[Tình dục trước hôn nhân|trước hôn nhân]] và [[ngoại tình]].
Dòng 22:
 
=== Quan hệ được tập quán hoặc pháp luật công nhận ===
Trong ''[[Lịch sử hôn nhân của con người]]'' (1891), Edvard Westermarck đã định nghĩa hôn nhân là "mối liên hệ ít nhiều bền vững giữa nam và nữ kéo dài vượt ra ngoài hành động truyền bá đơn thuần cho đến sau khi sinh con." <ref>{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=ShU3N7_GaMYC|title=History of Human Marriage 1922|last=Westermarck|first=Edward|date = ngày 1 tháng 4 năm 2003-04-01 |publisher=Kessinger Publishing|isbn=978-0-7661-4618-1|location=|page=71|language=en}}</ref> Trong cuốn ''Tương lai của hôn nhân trong văn minh phương Tây'' (1936), ông đã bác bỏ định nghĩa trước đó của mình, thay vào đó, định nghĩa tạm thời hôn nhân là "mối quan hệ của một hoặc nhiều đàn ông với một hoặc nhiều phụ nữ được công nhận bởi luật pháp hoặc tập quán".<ref>{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=gZ8LyGDtSZIC|title=The Future of Marriage in Western Civilisation|last=Westermarck|first=Edward|date=1936|publisher=Books for Libraries Press|isbn=978-0-8369-5304-6|location=|page=3|language=en}}</ref>
 
=== Tính hợp pháp của con cái ===
Dòng 65:
Một nghiên cứu so sánh về hôn nhân của nhà nhân chủng học [[Jack Goody]] trên thế giới sử dụng [[Human Relations Area Files|Ethnographic Atlas]] đã phát hiện một mối tương quan chặt chẽ giữa của hồi môn, nông nghiệp cày cấy thâm canh và chế độ một vợ một chồng. Hình thức này được tìm thấy trong một khu vực rộng lớn của các xã hội Á-Âu từ Nhật Bản đến Ireland. Phần lớn các xã hội châu Phi cận Sahara thực hiện nông nghiệp cuốc nhiều, thì ngược lại, thể hiện mối tương quan giữa "[[Bride price]]" và một vợ một chồng.<ref name="Goody 1976 7">{{chú thích sách|last=Goody|first=Jack|title=Production and Reproduction: A Comparative Study of the Domestic Domain|year=1976|publisher=Cambridge University Press|location=Cambridge|page=7}}</ref> Một nghiên cứu sâu thêm đã vẽ thêm vào Át-lát nhân chủng học thể hiện tương quan thống kê giữa sự gia tăng kích thước của xã hội, sự tin tưởng vào "các đấng thánh tối cao" để hỗ trợ cho đạo đức con người, và một vợ một chồng.<ref>{{chú thích tạp chí|last=Roes|first=Frans L.|title=The Size of Societies, Monogamy, and Belief in High Gods Supporting Human Morality|journal=Tijdschrift voor sociale wetenschappen|year=1992|volume=37|issue=1|pages=53–58}}</ref>
 
Ở những quốc gia không cho phép đa thê đa phu, một người kết hôn với một người trong khi vẫn kết hôn hợp pháp với người khác phạm tội vi phạm hôn nhân một vơ một chồng . Trong mọi trường hợp, cuộc hôn nhân thứ hai được coi là vô hiệu về mặt pháp lý. Bên cạnh các cuộc hôn nhân thứ hai và sau đó là vô hiệu, những người vi phạm cũng phải chịu các hình phạt khác, cũng khác nhau giữa các khu vực pháp lý.
 
==== Chế độ một vợ một chồng nối tiếp ====
Các chính phủ hỗ trợ chế độ một vợ một chồng cũng có thể cho phép ly hôn dễ dàng. Ở một số nước phương Tây tỷ lệ ly hôn lên tới 50%. Những người tái hôn làm như vậy trung bình ba lần. Ly hôn và tái hôn có thể dẫn đến "chế độ một vợ một chồng nối tiếp", tức là có nhiều cuộc hôn nhân nhưng chỉ có một người phối ngẫu hợp pháp tại một thời điểm. Điều này có thể được hiểu là một hình thức giao phối số nhiều, cũng như những xã hội bị chi phối bởi các gia đình có nữ giới ở [[Vùng Caribe|Caribbean]], [[Mauritius]] và [[Brasil|Brazil]], nơi thường xuyên có sự luân chuyển của các đối tác chưa kết hôn. Tổng cộng, những thứ này chiếm từ 16 đến 24% trong danh mục "hôn nhân một vợ một chồng". <ref>{{Chú thích sách|title=Reproduction & Succession: Studies in Anthropology, Law and Society|last=Fox|first=Robin|publisher=Transaction Publishers|year=1997|location=New Brunswick, NJ|page=34}}</ref>
 
Chế độ một vợ một chồng tạo ra một loại họ hàng mới, "nhà vợ/nhà chồng". Ví dụ, "vợ cũ" vẫn là một phần tích cực của cuộc sống của "chồng cũ" hoặc "vợ cũ" của họ, vì họ có thể bị ràng buộc với nhau bằng cách chuyển tài nguyên (cấp dưỡng nuôi con) hoặc nuôi dưỡng con chung . Bob Simpson lưu ý rằng trong trường hợp của Anh, chế độ một vợ một chồng tạo ra một "gia đình mở rộng" - một số hộ gia đình gắn bó với nhau theo cách này, bao gồm cả những đứa trẻ di động (những người cũ có thể bao gồm vợ cũ, anh rể cũ, v.v., nhưng không phải là "con cũ"). Những "gia đình không rõ ràng" này không phù hợp với khuôn mẫu của [[gia đình hạt nhân]] một vợ một chồng. Là một loạt các hộ gia đình được kết nối, họ đến giống với mô hình đa dạng của các hộ gia đình riêng biệt được duy trì bởi các bà mẹ có con, bị ràng buộc bởi một người đàn ông mà họ đã kết hôn hoặc ly dị. <ref>{{Chú thích sách|title=Changing Families: An Ethnographic Approach to Divorce and Separation|last=Simpson|first=Bob|publisher=Berg|year=1998|location=Oxford}}</ref>
 
===Hôn nhân đa thê và đa phu===
Chế độ đa phu thê là một cuộc hôn nhân bao gồm nhiều hơn hai vợ chồng. <ref name="Zeitzen2">{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=WIzHjpTJgdQC&pg=PA3|title=Polygamy: a cross-cultural analysis|last=Zeitzen|first=Miriam Koktvedgaard|publisher=Berg|year=2008|isbn=978-1-84520-220-0|page=3}}</ref> Khi một người đàn ông kết hôn với nhiều vợ cùng một lúc, mối quan hệ được gọi là [[đa thê]], và không có sự ràng buộc hôn nhân giữa các bà vợ; và khi một người phụ nữ kết hôn với nhiều người chồng cùng một lúc, điều đó được gọi là [[đa phu]], và không có sự ràng buộc hôn nhân giữa các ông chồng. Nếu một cuộc hôn nhân bao gồm nhiều chồng hoặc vợ, nó có thể được gọi là [[Hôn nhân theo nhóm|kết hôn theo nhóm]] . <ref name="Zeitzen2" />
 
Một nghiên cứu di truyền phân tử về sự đa dạng di truyền của con người trên toàn cầu cho rằng đa thê tình dục là điển hình của mô hình sinh sản của con người cho đến khi chuyển sang các cộng đồng nông nghiệp định cư khoảng 10.000 đến 5.000 năm trước ở châu Âu và châu Á, và gần đây là ở châu Phi và châu Mỹ. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Dupanloup I, Pereira L, Bertorelle G, Calafell F, Prata MJ, Amorim A, Barbujani G|year=2003|title=A recent shift from polygyny to monogamy in humans is suggested by the analysis of worldwide Y-chromosome diversity|journal=J Mol Evol|volume=57|issue=1|pages=85–97|bibcode=2003JMolE..57...85D|citeseerx=10.1.1.454.1662|doi=10.1007/s00239-003-2458-x|pmid=12962309}}</ref> Như đã lưu ý ở trên, nghiên cứu so sánh về hôn nhân trên khắp thế giới của nhà nhân chủng học [[ Jack Goody|Jack Goody]] sử dụng [[ Tập tin khu vực quan hệ con người|Atlas dân tộc học cho]] thấy phần lớn các xã hội châu Phi cận Sahara thực hành nông nghiệp hoe rộng rãi cho thấy mối tương quan giữa " [[Giá cô dâu]] " và chế độ đa thê. <ref name="Goody 1976 72">{{Chú thích sách|title=Production and Reproduction: A Comparative Study of the Domestic Domain|last=Goody|first=Jack|publisher=Cambridge University Press|year=1976|location=Cambridge|page=7}}</ref> Một cuộc khảo sát các mẫu đa văn hóa khác đã xác nhận rằng sự vắng mặt của máy cày là yếu tố dự báo duy nhất của chế độ đa thê, mặc dù các yếu tố khác như tỷ lệ tử vong nam cao trong chiến tranh (trong các xã hội ngoài quốc doanh) và căng thẳng mầm bệnh (trong xã hội nhà nước) có một số ảnh hưởng. <ref>{{Chú thích tạp chí|last=Ember|first=Carol R.|year=2011|title=What we know and what we don't know about variation in social organization: Melvin Ember's approach to the study of kinship|journal=Cross-Cultural Research|volume=45|issue=1|pages=27–30|doi=10.1177/1069397110383947}}</ref>
 
Hôn nhân được phân loại theo số lượng vợ/chồng hợp pháp mà một cá nhân có. Hậu tố "-gamy" đề cập cụ thể đến số lượng người phối ngẫu, như trong [[ Bigamy|bi-gamy]] (hai người phối ngẫu, nói chung là bất hợp pháp ở hầu hết các quốc gia) và đa chủng tộc (nhiều hơn một người phối ngẫu).
 
Các xã hội thể hiện sự chấp nhận khác nhau về đa phu thê. Theo [[Human Relations Area Files|Ethnographic Atlas]], trong số 1.231 xã hội được ghi nhận, 186 là kiểu một vợ một chồng; 453 có đa thê; 588 có đa thê thường xuyên hơn; và 4 có đa phu.<ref name="Atlas">[http://eclectic.ss.uci.edu/~drwhite/worldcul/Codebook4EthnoAtlas.pdf ''Ethnographic Atlas Codebook''] derived from George P. Murdock’s ''Ethnographic Atlas'' recording the marital composition of 1231 societies from 1960 to 1980</ref> Tuy nhiên, theo Miriam Zeitzen, sự chịu đựng của một xã hội về đa thê thì khác với việc thực hiện đa thê, vì nó đòi hỏi sự giàu có để có được một gia đình có nhiều vợ. Thực tế về đa thê trong một xã hội thoải mái về vấn đề này có thể là thấp, với phần lớn những người mong muốn đa thê lại thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Việc theo dõi sự xuất hiện đa thê thì phức tạp hơn ở các nước nơi mà chế độ này bị cấm, nhưng vẫn tiếp tục diễn ra.<ref name="Zeitzen 2008 5">{{chú thích sách|last=Zeitzen|first=Miriam Koktvedgaard|title=Polygamy: A Cross-Cultural Analysis|year=2008|publisher=Berg|location=Oxford|page=5|isbn=1847886175}}</ref>