Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bộ Giao thông Vận tải (Việt Nam)”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, General fixes, replaced: TP HCM → Thành phố Hồ Chí Minh (2), TPHCM → Thành phố Hồ Chí Minh , HCM → Hồ Chí Minh , → (50) using AWB |
|||
Dòng 1:
{{Bộ Việt Nam
| tên bộ
| hình
| ghi chú hình =
| hình bộ trưởng = Nguyễn Văn Thể.jpg
| bộ trưởng
| từ
| bổ nhiệm bởi = [[Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam|Chủ tịch nước]]
| nhiệm kỳ
| thành lập
| bộ trưởng đầu tiên = [[Đào Trọng Kim]]
| hoạt động
| ngân sách năm = 2018
| ngân sách
| nhân viên
| thứ trưởng
| địa chỉ
| điện thoại
| fax
| email
| web
}}
'''Bộ Giao thông Vận tải''' là cơ quan của [[Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam]], thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về
== Lịch sử ==
Dòng 29:
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 28/8/1945, [[Hồ Chí Minh|Hồ Chủ tịch]] đã chính thức ký quyết định thành lập Bộ Giao thông công chính thuộc Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và giao cho nhân sĩ yêu nước [[Đào Trọng Kim]] làm Bộ trưởng. Cũng từ đây, hệ thống giao thông đã thực sự trở thành tài sản của người Việt Nam, phục vụ người dân nước Việt.<ref name=":0" />
Thời kỳ mới thành lập Bộ Giao thông công chính đứng trước những khó khăn rất nặng nề với 6 nhiệm vụ rất căn bản: (1) Vận tải quân, lương phục vụ cho kháng chiến Nam Bộ và các chiến trường khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra (12.1946); (2) Phá hoại cầu đường ngăn chặn quân địch tiến quân đánh chiến các vùng tự do, các căn cứ kháng chiến với âm mưu đánh nhanh thắng nhanh; (3) Thiết lập các đường dây giao liên, giữ giao thông liên lạc thông suốt các miền Bắc - Trung - Nam phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ; (4) Sửa chữa, mở đường các vùng tự do, vùng kháng chiến và đi sâu vào các vùng hậu cứ của địch để phục vụ các chiến dịch đánh địch trên khắp các chiến trường đồng thời gia tăng phục vụ sản xuất; (5) Vận tải hàng hoá, hành khách, vận chuyển lương thực, quân đội tham gia các chiến dịch tấn công giai đoạn 1945 - 1954; (6) Làm nhiệm vụ quốc tế chi viện cho Lào, Campuchia v.v. Thành tựu nổi bật của Ngành Giao thông công chính thời kỳ này là đã cùng toàn dân tham gia thực hiện các phong trào do Chính phủ phát động và chỉ đạo như
=== Giai đoạn 1954-1964: GTVT xây dựng CNXH ở miền Bắc và chi viện cho miền Nam<ref>{{Chú thích web|url=http://www.mt.gov.vn/vn/pages/lichsuphattrien.aspx?IDNews=19979|tựa đề=GIAI ĐOẠN 1954 - 1964|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref> ===
Dòng 41:
Đây là thời kỳ đầu đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Ngành GTVT kể từ khi thành lập. Hai đặc điểm nổi bật của Ngành thời kỳ này là GTVT phục vụ sự nghiệp củng cố và phát triển kinh tế miền Bắc và chi viện cho cuộc kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường miền Nam. Cũng trong giai đoạn này, Ngành GTVT đã nhận được một sự đầu tư đáng kể của Nhà nước và viện trợ giúp đỡ của bạn bè quốc tế, đặc biệt là sự giúp đỡ của Liên Xô (cũ) và Trung Quốc.
Những sự kiện nổi bật ghi dấu ấn của Ngành trong giai đoạn này là đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử với phong trào
Với ngành đường sắt, trong giai đoạn 1964 - 1975 đã liên tục đảm bảo giao thông suốt trong điều kiện địch đánh phá dữ dội. Ngành Đường sắt đã làm 3.915 mét cầu tạm,
=== Giai đoạn 1975-1985: GTVT trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN<ref>{{Chú thích web|url=http://www.mt.gov.vn/vn/pages/lichsuphattrien.aspx?IDNews=19981|tựa đề=GIAI ĐOẠN 1975 - 1985|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref> ===
Đại hội lần thứ 4 của Đảng (Tháng 12.1976) đã đề ra yêu cầu phải
Trong giao thông đường bộ đã xây dựng mới hơn 2 vạn mét cầu, 520 cống, đặt mới
=== Giai đoạn 1986-1995: Bước đầu thời kỳ đổi mới<ref>{{Chú thích web|url=http://www.mt.gov.vn/vn/pages/lichsuphattrien.aspx?IDNews=19983|tựa đề=GIAI ĐOẠN 1986 - 1995|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref> ===
Trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1995, do đất nước vẫn đang bị bao vây cấm vận, ngân sách Nhà nước hết sức khó khăn nên Ngành GTVT tập trung chủ yếu nguồn lực cho công tác duy tu bảo dưỡng để đảm bảo an toàn giao thông và triển khai xây dựng một số công trình thực sự cấp bách.
Trong giai đoạn này, Bộ GTVT đổi tên thành Bộ GTVT và Bưu điện sau khi Tổng cục Bưu điện và Cục Hàng không dân dụng sáp nhập vào Bộ GTVT. Một số nhiệm vụ chính của Bộ GTVT và Bưu điện trong giai đoạn này là: (1) Về vận tải: Tập trung chỉ đạo các ngành vận tải kiên quyết thực hiện mục tiêu vận tải đối với các mặt hàng quan trọng trong nền kinh tế như than, phân bón, hàng xuất nhập khẩu; đồng thời phục vụ các nhu cầu đời sống xã hội như: lương thực, hàng tiêu dùng thiết yếu, hàng lên miền núi
Về mặt tổ chức, năm 1992, ngành Bưu điện và ngành Hàng không tách ra khỏi Bộ GTVT. Tuy nhiên, đến năm 2003, Cục Hàng không dân dụng trở lại trực thuộc Bộ GTVT.
Theo Nghị định 34/2003/NĐ - CP ngày 04/4/2003 của Chính phủ thì hiện nay tổ chức Bộ GTVT gồm có các Vụ, Văn phòng Bộ, Thanh tra Bộ
=== Giai đoạn 1995 đến nay: Thời kỳ đổi mới<ref>{{Chú thích web|url=http://www.mt.gov.vn/vn/pages/lichsuphattrien.aspx?IDNews=19986|tựa đề=GIAI ĐOẠN 1995 - NAY|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref> ===
Từ năm 1996 trở lại đây, trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng giao thông, nhiều công trình giao thông đã được triển khai. Trong 10 năm (từ 1996 đến 2005) Ngành GTVT đã tiến hành cải tạo nâng cấp và làm mới hơn 16.000
Về đường bộ, Ngành GTVT đã hoàn thành cơ bản việc nâng cấp toàn tuyến trục dọc
Ngoài 02 trục dọc trên, Ngành GTVT đã hoàn thành các tuyến quốc lộ chính yếu nối đến các cảng biển và cửa khẩu quốc tế như QL5, QL18, QL10, QL22, QL51, QL14B... Đồng thời, đã và đang nâng cấp các tuyến quốc lộ hướng tâm và vành đai phía Bắc, phía Nam; các tuyến quốc lộ ở Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
Trên các tuyến đường mới, hàng loạt các cầu đã được xây dựng như: cầu Kiền, cầu Tô Châu, Tạ Khoa, Bến Lức, cầu Tuần và tuyến tránh thành phố Huế, cầu Tân An và tuyến tránh Tân An, cầu Yên Lệnh; cầu Tuyên Nhơn (tuyến N2); các cầu thuộc dự án cầu QL1: Đà Rằng, Diêu Trì, Tam Giang; Sông Vệ, Câu Lâu, Trà Khúc, Cây Bứa, Bồng Sơn và Bàn Thạch; cầu Sông Rộ (dự án Đường
Bên cạnh các dự án sử dụng vốn NSNN và tài trợ quốc tế, trong giai đoạn vừa qua đã nổi lên một số dự án BOT lần đầu tiên đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng như BOT Đèo Ngang; BOT An Sương - An Lạc. Đây là tín hiệu rất đáng mừng về khả năng huy động tối đa các nguồn lực trong xã hội cho sự phát triển kết cấu hạ tầng giao thông.
Dòng 72:
Về đường sắt, Ngành GTVT đã từng bước nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có, nâng cao an toàn và rút ngắn đáng kể thời gian chạy tàu. Các cầu và ga trên đường sắt Thống Nhất đã được cải tạo và nâng cấp.
Về đường sông, đã hoàn thành nâng cấp 2 tuyến đường thuỷ phía Nam (
Về hàng hải, Ngành GTVT trong giai đoạn vừa qua đã hoàn thành nâng cấp giai đoạn 1 các cảng biển tổng hợp quốc gia chủ yếu như: Cảng Cái Lân, Cảng Hải Phòng, Cảng Cửa Lò, Cảng Vũng Áng, Cảng Tiên Sa, Cảng Quy Nhơn, Cảng Nha Trang, Cảng Sài Gòn, Cảng Cần Thơ và hoàn thành nâng cấp một số cảng địa phương cần thiết đáp ứng lượng hàng hoá thông qua.
Về hàng không, tất cả các cảng hàng không trên khắp cả nước đều được nâng cấp một bước, đáp ứng kịp thời nhu cầu đi lại bằng máy bay đang ngày càng gia tăng. Một số công trình quan trọng có thể kể ra như: Nhà ga T1 và đường cất hạ cánh 1B Cảng hàng không quốc tế Nội Bài; đường cất hạ cánh 25L tại Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất; nhà ga, sân đỗ, đường hạ cất cánh sân bay Vinh, nhà ga sân bay Phú Quốc
Đối với hệ thống giao thông địa phương, đến nay hệ thống đường tỉnh đã được mở mang, nâng cấp một bước, tạo được sự kết nối tốt hơn với hệ thống quốc lộ. Giao thông nông thôn phát triển mạnh đã làm giảm số xã chưa có đường đến trung tâm từ 663 xã năm 1997 xuống còn 219 xã năm 2004. Tuy nhiên đến nay, do có sự chia tách xã và nhiều tuyến đường giao thông nông thôn do không được quản lý, bảo trì và thiên tai phá hoại bị hư hỏng, xuống cấp nên số lượng xã chưa có đường về trung tâm tăng lên gần 400 xã.
== Chức năng nhiệm vụ ==
Bộ Giao thông vận tải thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:<ref>{{Chú thích web|url=http://www.mt.gov.vn/vn/tin-tuc/47443/chuc-nang-nhiem-vu.aspx|tiêu đề=NGHỊ ĐỊNH Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
1. Trình Chính phủ dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị quyết, nghị định của Chính phủ theo chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật hàng năm của bộ đã được phê duyệt và các dự án, đề án theo phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; chiến lược, quy hoạch phát triển, kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm; các chương trình, dự án quốc gia thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ.
Dòng 281:
* Trường Cao đẳng nghề đường sắt I
* Trường Cao đẳng nghề GTVT đường thủy I
* Trường Cao đẳng nghề
* Trường Cao đẳng nghề hàng hải TP.Hồ Chí Minh
* Trường Cao đẳng nghề Vinashin
Dòng 345:
|-
! valign=top style="width:30px" | Thứ tự
! valign=top style="width:130px" |
! valign=top style="width:230px" |
! valign=top style="width:280px" |
|-
| 1
| [[Đào Trọng Kim]]
| tháng 8 năm [[1945]]-
| Bộ trưởng Bộ Giao thông Công chính
|-
Dòng 452:
{{Tổ chức nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam}}
{{Kiểm soát tính nhất quán}}
[[Thể loại:Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam|*]]
[[Thể loại:Giao thông Việt Nam]]
|