Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chu Hi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up using AWB
Dòng 14:
'''Chu Hi''' ([[chữ Hán]]: 朱熹, [[Bính âm Hán ngữ|bính âm]]: Zhū Xī; [[Wade-Giles]]: Chu Hsi; [[18 tháng 10]], [[1130]] - [[23 tháng 4]], [[1200]]), [[biểu tự]] '''Nguyên Hối''' (元晦) hoặc '''Trọng Hối''' (仲晦), tiểu tự '''Quý Diên''' (季延), hiệu là '''Hối Am''' (晦庵), '''Lão Đình''' (考亭), về sau xưng '''Hối Ông''' (晦翁), lại xưng '''Tử Dương Phu Tử''' (紫陽夫子), là người đã phát triển học thuyết lí - khí của [[Trình Hạo]] và [[Trình Di]], đã đưa [[Tống Nho|Lý học Tống Nho]] lên thành một hệ thống duy tâm khách quan hoàn chỉnh, được gọi là [[Học phái Trình Chu|Trình Chu lí học]].
 
Chu Hi gia cảnh bần cùng nhưng từ nhỏ thông minh, trải qua 4 đời Hoàng đế Nam Tống là [[Tống Cao Tông]], [[Tống Hiếu Tông]], [[Tống Quang Tông]] cùng [[Tống Ninh Tông]]. Với danh xưng '''Chu Tử''' (朱子), Chu Hi góp sức rất nhiều cho học phái Tống Nho được xưng là 「''"Lý học"''; 理学」, kế thừa [[Chu Đôn Di]] cùng Nhị Trình, có ảnh hưởng đến lý thuyết [[Nho giáo]] từ Tống trở đi. Tác phẩm ông làm ra rất nhiều, định ra [[Đại Học]], [[Trung Dung]], [[Luận Ngữ]] cùng [[Mạnh Tử (sách)|Mạnh Tử]] làm nhóm ''"Tứ thư"'' chuyên dùng trong [[khoa cử]], ảnh hưởng rất lớn tư duy từ [[nhà Minh]] về sau.
 
Sau khi qua đời, ông được triều đình ban [[thụy hiệu]] là chữ Văn, nên còn được gọi 「'''Chu Văn Công'''; 朱文公」.
 
== Cuộc đời ==
Chu Hi sinh ngày [[19 tháng 9]] (âm lịch) năm Kiếm Viêm thứ 4 ([[1130]]) triều [[Tống Cao Tông]]. Ông là người gốc [[Vụ Nguyên]], tỉnh [[Giang Tây]], nhưng sinh ra tại [[Trịnh Thị thảo đường]] (鄭氏草堂) ở huyện [[Vưu Khê]] (nay là thành phố [[Tam Minh]], tỉnh [[Phúc Kiến]]). Ông là học trò bốn đời của [[Trình Di]], và học trò của [[Chu Đôn Di]].
 
Từ thuở nhỏ, ông đã được tiếp thu nền giáo dục của nhà Nho. Khoảng 5 tuổi, Chu Hi đã đọc sách, tụng ''[[Hiếu Kinh]]''<ref>真德秀《西山讀書記》卷三十一錄李方子《紫陽年譜》載,“先生幼有異稟,五歲入小學,始誦《孝經》,即了其大義,書八字於其上曰:‘若不如此,便不成人。’間從群兒嬉遊,獨以沙列八卦象,詳觀側玩。又嘗指日問於吏部曰:‘日何所附?’曰:‘附於天’。又問:‘天何所附?’吏部奇之。”</ref>, đến năm 18 tuổi thì đậu [[Hương cống]] thuộc [[Kiến Châu]]. Năm Thiệu Hưng thứ 18 ([[1148]]), đậu [[Tiến sĩ]], khi ấy 19 tuổi. Năm thứ 21 ([[1151]]), Chu Hi được triều đình sai đến huyện Đổng An làm chức [[Chủ bạ]], lãnh trách nhiệm [[thu thuế]] và coi cả việc giáo dục trong huyện.
Dòng 26:
 
== Tư tưởng ==
Theo Chu Hi, ''"lí"'' và ''"khí"'' không tách rời nhau:「''"Trong thiên hạ, không hề có khí mà không có lí, cũng không hề có lí mà không có khí"''」. Nhưng lại khẳng định 「''"Trước khi có trời đất đã có lí"''」<ref>''Chu Tử ngữ loại'', quyển 1</ref>, 「''"Lí có trước, khí có sau"''」, 「''"Có lí này thì có khí này, nhưng lí là gốc"''」.
 
Ông đã kế thừa quan điểm "nhất vật lưỡng thể" của [[Trương Tải]], cho rằng "Phàm là vật thì không đâu là không tương phản để tương thành", vật chỉ là "một chia thành hai, mỗi bước đều như thế, cho đến cùng, tất cả đều là một sinh hai"<ref>''Chu Tử ngữ loại'', quyển 17</ref>. Ông cho rằng sự vật vận động qua hai hình thức: "hoá" và "biến", "hoá" là biến đổi từ từ, chậm chạp; "biến" là biến đổi đột xuất, nhanh chóng.
 
Về quan hệ tri hành thì cho tri trước hành sau, nhưng xét về tầm quan trọng thì cho hành quan trọng hơn tri và nhấn mạnh vai trò của hành trong nhận thức. Về vấn đề tính người thì cho rằng thánh hiền bẩm thụ khí trong, kẻ ngu hèn bẩm thụ khí đục, cho rằng con người thì có tính thiên mệnh (đạo tâm) và tính khí chất (nhân tâm). Nhấn mạnh sự đối lập giữa "thiên lí" và "nhân dục", chủ trương vứt bỏ "tư dục" và phục tùng "thiên lí". Về quan niệm lịch sử, Chu Hi cho rằng thời cổ đại lưu hành thiên lí, còn thời sau thì thiên lí mất đi và nhân dục xuất hiện ngày càng nhiều.