Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hà Pháp Nghê”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up using AWB
Dòng 2:
 
== Tiểu sử ==
Hà hậu nguyên quán thuộc quận [[Lư Giang]] (廬江). Phụ thân của Hà Pháp Nghê là [[Hà Chuẩn]] (何准), vốn là một danh sĩ có tiếng; em trai của Phiêu kị tướng quân [[Hà Sung]] (何充), làm đến chức [[Tể tướng]] trong triều. Hà Chuẩn lấy Ngô thị và sinh ra Hà Pháp Nghê. Do xuất thân cao quý nên Hà Pháp Nghê được tuyển vào cung hầu hạ cho [[Tấn Mục Đế]].
 
[[Tháng 8]] năm [[357]], Mục Đế hạ chiếu phong bà làm [[Hoàng hậu]]. Phụ thân của bà cũng được Tấn triều truy phong Quang Lộc đại phu, tước ''Tấn Hưng huyện hầu''. Hà Pháp Nghê làm hoàng hậu 4 năm và không sinh được con.
 
Năm [[361]], Mục Đế băng hà, anh họ là [[Tấn Ai Đế]] lên ngôi, phong bà làm '''Mục hoàng hậu''' (穆皇后), chuyển sang [[Vĩnh An cung]] (永安宮)<ref>[[Tấn thư]], [https://zh.wikisource.org/wiki/%E6%99%89%E6%9B%B8/%E5%8D%B7032 quyển 32]: ''"Ai đế tức vị, xưng Mục hoàng hậu, cư Vĩnh An cung"''</ref>. Bà sống trong Vĩnh An cung từ các đời Ai Đế qua Phế Đế, Giản Văn Đế, Hiếu Vũ Đế và An Đế.
Dòng 10:
Năm [[402]], thời [[Tấn An Đế]], tướng [[Hoàn Huyền]] ở [[Kinh Châu]] khởi binh tạo phản, chiếm được [[Kiến Khang]] và nuôi mộng cướp ngôi. Năm [[403]], Hoàn Huyền bắt bà dời khỏi cung, cùng [[Tư Mã Đức Văn]] (em trai An Đế) đến sống ở phủ Tư đồ, dời An Đế sang Vĩnh An cung. Khi xa giá của bà ra khỏi Thái miếu, có người xa phu quỳ xuống kêu khóc khiến Hoàn Huyền rất tức giận.
 
[[Tháng 12]] cùng năm, Hoàn Huyền chính thức soán ngôi xưng đế, lập ra nhà nước [[Hoàn Sở]], cho biếm bà làm '''Linh Lăng Huyện quân''' (零陵縣君), dời bà cùng An Đế và hoàng hậu đến [[Ba Lăng]]. Không bao lâu sau, [[Lưu Dụ]] kiến nghĩa, đánh dẹp Hoàn Huyền, tướng quân [[Ân Trọng Văn]] lại đón Hà Pháp Nghê trở về Kiến Khang.
 
Tháng 7 năm [[404]], bà qua đời ở Kiến Khang, thọ 66 tuổi, được truy tôn là '''Mục Chương hoàng hậu''' (穆章皇后), an táng ở [[Vĩnh Bình Lăng]] (永平陵).
Dòng 20:
 
{{Hoàng hậu nhà Tấn}}
 
{{sơ khai}}
 
[[Thể loại:Hoàng hậu nhà Tấn]]