Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đông Di”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
n clean up, replaced: {{cite journal → {{chú thích tạp chí, . < → .<, → (4) using AWB |
||
Dòng 1:
[[Hình:Huaxiasiyi.svg |thumb|Bản đồ thời [[nhà Chu]] gồm [[Hoa Hạ]] bao quanh là ''[[Tứ Di]]'':
[[Tập tin:Dawenkou Gui Dazhucun.jpg|nhỏ|phải|''Quy'' (鬹) từ [[Văn hóa Đại Vấn Khẩu]]]]
'''Đông Di''' ([[chữ Hán]]: 東夷, bính âm: Dongyi) là thuật ngữ miệt thị trong [[lịch sử Trung Quốc]] để chỉ các [[bộ lạc]] [[dân tộc ngoài Trung Nguyên cổ đại]] ở phía
Theo bản ghi chép xưa nhất của Trung Hoa "[[Tả truyện]]", [[nhà Thương]] bị sụp đổ bởi cuộc tấn công của vua Vũ [[nhà Chu]], đồng thời lúc đó nhà Chu cũng tấn công Đông Di.
== Thuật ngữ ==
Lý thuyết [[vũ trụ quan]] "''Trung Hoa''" (Sinocentric) có từ thời [[nhà Chu]] (cỡ 1046–256 [[TCN]]) đưa ra khái niệm "trời tròn đất vuông", coi "[[thiên hạ]]" (天下) là bao trùm gồm [[Hoa Hạ]] (華夏) ở tâm là ''người đã giáo hóa văn minh'', và bao quanh là các dân tộc '''[[Tứ Di]]''' (''man di mọi rợ'') [[dân tộc ngoài Trung Nguyên cổ đại
Chữ Di bao gồm nhiều nghĩa. Nghĩa chủ yếu là "yên bình". Trong sách ''Thuyết văn giải tự'' (說文解字) của người thời Hán là [[Hứa Thận]] giải nghĩa chữ Di là "gồm bộ đại và bộ cung", theo đó người Đông Di phát minh cung tên sớm nhất, có tài bắn tên. Cho nên mới nói "Đông Di" là những người bắn tên ở miền đông. Truyền thuyết và sách vở thời xưa ghi chép Hậu Nghệ là thủ lĩnh của người Đông Di. Nhưng chữ Di trong [[giáp cốt văn]] và kim văn thời Thương-Chu thực tế gồm bộ "thi" hoặc bộ "nhân", không có bộ "cung". Có người cho rằng quan điểm 'gồm bộ đại và bộ cung' của chữ Di có thể là người thời Hán thêm bớt mà thành đến nay. [[Thiên hạ]] trong chủ nghĩa trung tâm của người Trung Quốc thì
== Văn hóa ==
[[Tập tin:Longshan eggshell thin cup.jpg|phải|150px|nhỏ|Gốm đen thuộc [[văn hóa Long Sơn]]]]
Văn hóa Đông Di là một trong
Hệ thống chữ viết của người Đông Di được xem là hệ thống chữ viết sớm nhất vào thời kỳ đồ đá mới ở Trung Hoa. Người ta đã tìm thấy 20 ký tự tượng hình trong các hầm mộ Đông Di ở [[Sơn Đông]] (mộ táng văn hóa Đại Vấn Khẩu ở huyện Cử), trong đó có nhiều chữ như "旦、鉞(钺)、斤、皇、封、酒、拍、昃" (đán,、việt (việt), cân, hoàng, phong, tửu, phách, trắc), vẫn còn được dùng đến ngày nay để viết tiếng Hán hiện đại.
|