Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quân hàm Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 9:
 
Sau khi [[Nhật Bản đầu hàng]], [[Nội chiến Trung Quốc]] lại bùng nổ. Lực lượng Hồng quân dần sử dụng danh xưng mới Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, nhưng vẫn giữ lại truyền thống không sử dụng quân hàm. Đến [[Chiến tranh Triều Tiên]], những bất cập do việc không áp dụng chế độ quân hàm, gây ảnh hưởng lớn đến chỉ huy tác chiến, dần lộ rõ. Sau khi chiến tranh kết thúc, chế độ quân hàm đã được đề xuất áp dụng.
 
Hệ thống quân hàm mới được mô phỏng theo [[Quân hàm quân đội Liên Xô 1943-1955|hệ thống quân hàm Liên Xô]] với 5 bậc 18 cấp. Hệ thống này còn thành lập cấp bậc ''[[Nguyên soái Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]]'' (mô phỏng theo cấp bậc [[Nguyên soái Liên Xô]]) để phong các các lãnh đạo chính trị và quân sự cao cấp nhất, và cấp bậc ''[[Đại nguyên soái Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]]'' (mô phỏng theo cấp bậc [[Đại nguyên soái Liên Xô]]), dự dịnh tôn phong cho [[Mao Trạch Đông]]. Tuy nhiên, cũng như [[Stalin]], Mao Trạch Đông cũng từ chối nhận cấp bậc Đại nguyên soái, thậm chí mở ra tiền lệ các lãnh đạo chính trị cao cấp không nhận phong quân hàm. Theo gương ông, các lãnh đạo khác như [[Lưu Thiếu Kỳ]], [[Chu Ân Lai]], [[Đặng Tiểu Bình]]... cũng bày tỏ ý định không muốn nhận phong quân hàm Nguyên soái.
[[File:1955授衔10.jpg|thumb|trái|300px|[[Tổng lý Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa|Thủ tướng]] [[Chu Ân Lai]] trao quyết định phong cấp cho các tướng lĩnh.]]
Ngày 27 tháng 9 năm 1955, đại lễ trao quân hàm và huân chương của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc được tổ chức tại [[Hoài Nhân Đường]] [[Trung Nam Hải]]. Chủ tịch [[Mao Trạch Đông]] đã trao các quân hàm cho bảy [[Nguyên soái Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa|nguyên soái]] ở [[Bắc Kinh]], cũng như các huân chương cao cấp cho các nguyên soái và [[tướng lĩnh]]. Cùng ngày, [[Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]] tổ chức lễ phong quân hàm cấp tướng tại khán phòng Bộ Ngoại giao Trung Nam Hải. Theo đó có 10 [[Đại tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc|đại tướng]], 55 [[Thượng tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc|thượng tướng]], 175 [[trung tướng]] và 798 [[thiếu tướng]] được thụ phong quân hàm.<ref name="军服乙">{{cite book|author1=徐平主编|title=新中国实行军衔纪实|publisher=金城出版社|location=北京|isbn=9787802513785|accessdate=2017-08-22|language=zh-cn}}</ref> Trong số các tướng lĩnh thụ phong, có thiếu tướng [[Nguyễn Sơn|Hồng Thủy]] là người Việt Nam và là người nước ngoài duy nhất.
Hàng 14 ⟶ 16:
Các buổi lễ phong quân hàm sau đó tiếp tục được tổ chức tại các địa phương hoặc tại các cấp đơn vị. Trong đợt phong hàm đầu tiên vào năm 1955, tổng cộng có hơn 60 vạn quân nhân đã được phong quân hàm sĩ quan. Trong số đó, có 10 nguyên soái, 10 đại tướng, 55 thượng tướng, 175 trung tướng, 800 thiếu tướng, hơn 32.000 sĩ quan cấp tá, hơn 498.000 sĩ quan cấp úy và hơn 113.000 sĩ quan cấp chuẩn úy.<ref name="军衔丙">{{cite web|author1=徐平|title=我军建军九十年军衔制度沿革|url=http://www.mod.gov.cn/education/2017-08/07/content_4788037.htm|website=中华人民共和国国防部网站|accessdate=2017-08-20|location=北京|language=zh-cn}}</ref><ref name="军衔丁">{{cite web|author1=梅世雄、黄超|title=我军第一次实行军衔制是什么时候|url=http://www.mod.gov.cn/education/2017-07/21/content_4786360.htm|website=中华人民共和国国防部网站|accessdate=2017-08-20|location=北京|language=zh-cn}}</ref>
 
Ban đầu, hệ thống quân hàm 1955 được phân thành 5 bậc 18 cấp, với 7 nhóm ngành. Nhóm ngành 1 là nhóm sĩ quan chỉ huy, chính trị, phân chi tiết binh chủng gồm có bộ binh, kỵ binh, pháo binh, thiết giáp, công binh, đường sắt, thông tin, hậu cần, công an, không quân, hải quân, tuần duyên; cả thảy 12 loại. Trừ cấp bậc tướng lĩnh của hải quân thì bổ sung hậu tố "hải quân" sau danh xưng cấp bậc (VD: trung tướng hải quân), các cấp bậc còn lại của các ngành đều giống nhau. Các nhóm ngành còn làm là kỹ thuật (nhóm 2), quân nhu (nhóm 3), quân y (nhóm 4), thú y (nhóm 5), quân pháp (nhóm 6) và hành chính (nhóm 7). Các nhóm ngành này, hậu tố được thêm vào sau mỗi danh xưng cấp bậc. Ngoài quân phục, các quân binh chủng phân biệt theo cấp hiệu. Nền cấp hiệu 1955 của bộ binh lục quân có màu đỏ sậm, công an màu xanh lục, kỵ binh lục quân màu xanh lam sẫm, không quân và hàng không hải quân màu xanh lam nhạt, quân nhu màu tía, hải quân, radar phòng không, thông tin, công binh, đường sắt, vận tải quân sự màu đen, pháo binh lục quân, thiết giáp, cơ giới, hành chính, pháo binh phòng không bờ biển, quân y, thú y, quân pháp màu đỏ nhạt.<ref name="军服甲">{{cite book|author1=徐平主编|title=中国百年军服|publisher=金城出版社|location=北京|isbn=9787800846793|accessdate=2017-08-22|language=zh-cn}}</ref>
 
Trên thực tế, hệ thống phân loại này phức tạp và chồng chéo. Chẳng hạn các sĩ quan chính trị công tác trong các lực lượng hải quân, không quân và công an, lại mang cấp hiệu lục quân mà không mang cấp hiệu của quân chủng tương ướng; lực lượng phòng không không có cấp hiệu riêng, hàng không hải quân lại mang cấp hiệu không quân, hậu cần mang quân hàm quân nhu...<ref name="军服甲" /> Do vậy, ngày 25 tháng 11 năm 1955, Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng Nhân dân đã phải ban hành quy định tạm thời về cấp hiệu quân sự, đơn giản hóa màu sắc thành 3 loại: lục quân, công an và phòng không lục quân có màu đỏ, hải quân và công an tuần duyên có màu đen, còn lực lượng không quân, phòng không và hàng không hải quân có màu xanh da trời.<ref name="军服甲" />
Hàng 26 ⟶ 28:
Hệ thống quân hàm 1988 được phân thành 6 bậc 17 cấp. Cấp bậc Đại tướng được đổi danh xưng thành "Nhất cấp Thượng tướng". Sau khi chế độ quân hàm được phục hồi, tính đến cuối năm 1988, toàn quốc có hơn 587.000 sĩ quan và hơn 147.000 cán bộ dân sự đã được phong quân hàm. Trong đó có 17 thượng tướng, 146 trung tướng và 1.279 thiếu tướng; hơn 178.000 sĩ quan cấp tá và 488.000 sĩ quan cấp úy, với số lượng sĩ quan lục quân chiếm đa số áp đảo.<ref name="军衔丙"/>
 
Hệ thống quân hàm 1988 cơ sở ổn định, chỉ trải qua 4 lần sửa đổi nhỏ. Năm 1993, thành lập quân hàm hạ sĩ quan cao cấp được tách thànhvới 4 cấp riêng biệt. Năm 1994, quân hàm Nhất cấp Thượng tướng bị bãi bỏ, quân hàm Thượng tướng trở thành cấp bậc cao nhất của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Năm 1999, quân hàm hạ sĩ quan và binh sĩ được tinh giảnggiản từ 3 bậc 9 cấp xuống thành 2 bậc 8 cấp. Năm 2009, hệ thống quân hàm một lần nữa được phân loại thành 5 bậc 19 cấp và tồn tại đến ngày nay.<ref name="军衔甲">{{cite web|author1=人民网|title=九张图教你看懂解放军军衔和肩章|url=http://transcoder.tradaquan.com/tc?srd=1&dict=32&h5ad=1&bdenc=1&lid=5110780267783413345&title=%E7%BB%84%E5%9B%BE%3A%E4%B9%9D%E5%BC%A0%E5%9B%BE%E6%95%99%E4%BD%A0%E7%9C%8B%E6%87%82%E8%A7%A3%E6%94%BE%E5%86%9B%E5%86%9B%E8%A1%94%E5%92%8C%E8%82%A9%E7%AB%A0-%E4%B8%AD%E5%9B%BD%E5%86%9B%E7%BD%91&nsrc=IlPT2AEptyoA_yixCFOxXnANedT62v3IEQGG_8YJLDm57JuVa3npJ1IfEFWhACbCXpWlgTCcsRkYwk0sQDhij1w4kapoq7oa8Hv8v0ip|website=中国军网|accessdate=2017-08-20|location=北京|language=zh-cn}}</ref><ref name="军衔乙">{{cite web|author1=中央军事委员会|title=中国人民解放军军官军衔条例|url=http://www.mod.gov.cn/policy/2009-07/13/content_3098881.htm|website=中华人民共和国国防部网站|accessdate=2017-08-20|location=北京|language=zh-cn}}</ref>
 
==LụcCấp quânhiệu==
===Hệ thống cấp bậc 1955===
 
Từng sử dụng trong thời gian từ năm 1955-1965, phân ra 6 hạng 20 cấp: