Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vông đồng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: clean up, replaced: → , {{Taxobox → {{Bảng phân loại using AWB
Bổ sung ghi chú
Thẻ: Thêm nội dung không nguồn Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao
Dòng 33:
}}
 
'''Vông đồng''' hay còn gọi '''mã đậu''',<ref>Phạm Hoàng Hộ; ''Cây cỏ Việt Nam'' - tập 2; Nhà xuất bản Trẻ - 1999; Trang 286.</ref> '''bã đậu''',{{fact}} '''ba đậu tây''',<ref>Đỗ Tất Lợi; ''Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam''; Nhà xuất bản Y học - 2004; Trang 470.</ref> '''ngô đồng'''<ref>Nguyễn Tiến Bân, Nguyễn Quốc Bình, Vũ Văn Cẩn, Lê Mộng Chân, Nguyễn Ngọc Chính, Vũ Văn Dũng, Nguyễn Văn Dư, Trần Đình Đại, Nguyễn Kim Đào, Nguyễn Thị Đỏ, Nguyễn Hữu Hiến, Nguyễn Đình Hưng, Dương Đức Huyến, Nguyễn Đăng Khôi, Nguyễn Khắc Khôi, Trần Kim Liên, Vũ Xuân Phương, Hoàng Thị Sản, Nguyễn Văn Tập, Nguyễn Nghĩa Thìn; ''Tên cây rừng Việt Nam''; Nhà xuất bản Nông nghiệp - 2000; Trang 220, cột ngoài cùng bên trái, dòng thứ 3 từ dưới lên.</ref> ([[danh pháp hai phần]]: '''''Hura crepitans''''') là một loài thực vật có hoa thuộc [[họ Đại kích]] (Euphorbiaceae), được [[Carl Linnaeus]] mô tả khoa học lần đầu năm 1753. Loài cây có nguyên xuất từ khu vực nhiệt đới thuộc châu Mỹ. Tên '''Ngô đồng''' là một tên sai, không nên dùng tên này, vì nó dẫn nguồn từ 1 sách không có uy tín, lấy tên sai từ dân gian đem vào sách gây nhầm lẫn với các loài ngô đồng chính thống (Firminia sp.).
==Sinh học==
Vông đồng là loài gỗ lớn thường xanh, có thể cao tới 30&nbsp;m (100&nbsp;ft). Cành cây thường to lớn, thuộc dạng thân hợp trục. Vỏ thân cành có màu vàng nâu với nhiều gai biểu bì. Lá đơn thường mọc cách vòng tập trung ở đầu cành. Cuống lá dài 4–20&nbsp;cm, có hai tuyến nổi. Phiến lá hình trứng rộng có kích thước dài 2–29&nbsp;cm, rộng 5–17&nbsp;cm, đầu lá vuốt mũi nhọn, đuôi lá hình tim. Mạng gân lông chim với gân giữa nổi lên ở cả hai mặt của phiên lá, có 10-13 cặp gân phụ ở hai bên. Vông đồng là loài cây đơn tính cùng gốc. Các hoa màu đỏ không có cánh hoa. Hoa đực mọc thành chùm dài còn các hoa cái mọc đơn độc tại các nách lá. Quả hình cầu dẹt, thuộc dạng [[quả nang]] lớn, nổ to khi nứt. Khi chín, các quả nang có thể phóng hạt đi xa tới 100&nbsp;m (328&nbsp;ft).<ref>Feldkamp Susan (2002). Modern Biology. United States: Holt, Rinehart, and Winston. trang 634</ref> Cây có hoa vào tháng 4-5, quả vào tháng 8-9.<ref>[http://www.efloras.org/florataxon.aspx?flora_id=2&taxon_id=220006581 Flora in China: Hura crepitans]</ref>