Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Eminem”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Thêm Album mới
Thẻ: Thêm một hay nhiều mục vào danh sách Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
n clean up, CS1 error fixes, replaced: {{Infobox person → {{Thông tin nhân vật using AWB
Dòng 1:
{{redirect|Slim Shady}}
{{Thông tin nhân vật
{{Infobox person
| name = Eminem
| image = Eminem - Concert for Valor in Washington, D.C. Nov. 11, 2014 (2) (Cropped).jpg <!--- Đừng thay thế ảnh này bằng những hình ảnh có bản quyền. Chúng sẽ bị gỡ bỏ ngay lập tức từ bài viết và bị xóa khỏi Wikimedia Commons. --->
Dòng 85:
}}
 
'''Marshall Bruce Mathers III''' (sinh ngày [[17 tháng 10]] năm [[1972]]),<ref name="allmusicbio">{{Chú thích web|họ 1=Ankeny|tên 1=Jason|author2=Torreano, Bradley|tiêu đề=Eminem – Biography|url={{Allmusic|class=artist|id=p347307|pure_url=yes}}|nhà xuất bản=Allmusic|năm=2006|ngày truy cập=Januaryngày 30, tháng 1 năm 2008}}</ref> thường được biết đến với [[nghệ danh]] '''Eminem''' (thường được cách điệu là '''EMINƎM''') là một nam [[rapper]], [[nhạc sĩ]], [[nhà sản xuất thu âm]] và [[diễn viên]] [[người Mỹ]]. Được xem là người đã phổ biến dòng [[nhạc hip hop]] ở Trung Mỹ, thành công toàn cầu và các sản phẩm âm nhạc được ca ngợi của Eminem đã phá bỏ rào cản chủng tộc để các rapper da trắng dễ dàng tiếp nhận dòng nhạc này. Anh trở thành đại diện cho [[tầng lớp hạ lưu]] của [[xã hội]] [[Mỹ]]. Anh là nghệ sĩ có ảnh hưởng lớn đến nhiều nghệ sĩ thuộc các thể loại khác nhau.
 
Sau album đầu tay ''[[Infinite (album của Eminem)|Infinite]]'' (1996) và mini-album ''[[Slim Shady EP]]'' (1997), Eminem ký hợp đồng với [[Aftermath Entertainment]] và thành công vang dội sau đó vào năm 1999 với ''[[The Slim Shady LP]]''. Hai album tiếp theo của anh là ''[[The Marshall Mathers LP]]'' (2000) và ''[[The Eminem Show]]'' (2002) đều thành công trên toàn thế giới và cả hai đều được đề cử [[giải Grammy cho Album của năm]]. Sau khi phát hành album tiếp theo, ''[[Encore (album của Eminem)|Encore]]'' (2004), Eminem đã bị gián đoạn sự nghiệp vào năm 2005 do chứng nghiện thuốc. Anh trở lại làng giải trí 4 năm sau đó với việc phát hành ''[[Relapse (album của Eminem)|Relapse]]'' (2009) và ''[[Recovery (album của Eminem)|Recovery]]'' được phát hành vào một năm sau đó. Recovery là album bán chạy nhất trên toàn thế giới năm 2010, trở thành album thứ hai của Eminem, sau ''The Eminem Show'' năm 2002, trở thành [[Danh sách album bán chạy nhất thế giới|album bán chạy nhất trong năm trên toàn thế giới]]. Trong những năm tiếp theo, anh phát hành các album số một tại Hoa Kỳ ''[[The Marshall Mathers LP 2]]'', ''[[Revival (album của Eminem)|Revival]]'', ''[[Kamikaze (album của Eminem)|Kamikaze]]'' và ''[[Music to Be Murdered By]]''. Ngoài sự nghiệp solo, Eminem còn là thành viên của nhóm nhạc hip hop [[D12]]. Anh cũng được biết đến với sự hợp tác với rapper [[Royce da 5'9]] ở [[Detroit]]; cả hai được gọi chung là [[Bad Meets Evil]].
Dòng 94:
 
=== 1972–91: Đầu đời ===
Mathers sinh năm 1972 tại [[St. Joseph, Missouri]]. Anh là con trai duy nhất của Marshall Bruce Mathers, Jr. (sinh năm 1951, gọi thân mật là Bruce) và Deborah Rae Nelson (sinh năm 1955, gọi thân mật là Debbie).<ref>United States Public Record Number 1222170896</ref><ref>United States Public Records Number 292343335</ref><ref name=MySonMarshall/> Eminem mang trong mình dòng máu Anh, Đức, Scotland và Thụy Sĩ.<ref name="EminemEthnicity">{{Chú thích web|tiêu đề=Ancestry of Eminem|url=http://www.wargs.com/other/mathers.html|nhà xuất bản=Wargs}}</ref> Năm 14 tuổi Debbie gặp Bruce lúc đó 18 tuổi;<ref name=MySonMarshall>{{citechú thích booksách|last=Nelson|first=Debbie|title=[[My Son Marshall, My Son Eminem]]|year=2008|publisher=[[Phoenix Books]]|location=Beverly Hills, CA|isbn=1-59777-596-7}}</ref> năm 17 tuổi bà suýt chết khi sinh hạ Mathers sau 73 giờ đồng hồ đau đẻ.<ref name=SL00>{{cite journal| last =Elrick| first =M.L.| date =Julyngày 25, tháng 7 năm 2000| title =Eminem's dirty secrets | publisher =Salon | url = http://www.salon.com/2000/07/25/eminem_secrets/| accessdate =Marchngày 9, tháng 3 năm 2013}}</ref> Cha mẹ của Eminem chơi nhạc trong ban nhạc Daddy Warbucks, tại các nhà nghỉ của chuỗi khách sạn Ramada dọc biên giới [[các tiểu bang Dakota]]-Montana trước khi ly thân. Bruce bỏ rơi gia đình và chuyển tới California<ref name="RS99"/> đồng thời có thêm hai đứa con: Michael và Sarah (sinh khoảng năm 1982).<ref name=EminemSister>{{Chú thích web|tiêu đề=Eminem's Long-Lost Sister Shocked By Relation|url=http://www.contactmusic.com/news-article/eminems-longlost-sister-shocked-by-relation|nhà xuất bản=Contactmusic.com|ngày truy cập=Februaryngày 17, tháng 2 năm 2005}}</ref> Debbie sau đó sinh thêm một người con trai, Nathan Kane Samara, sinh năm 1986.<ref name=MySonMarshall/> Eminem và Debbie thường đi lại qua hai tiểu bang Missouri và Michigan chứ ít khi sống cố định ở một ngôi nhà trong hơn một hay hai năm hay sống chung với người thân trong gia đình. Tại Missouri họ cư ngụ ở nhiều nơi như Saint Joseph, [[Savannah, Missouri|Savannah]] và [[Kansas City, Missouri|Kansas City]].<ref>{{Chú thích web|url=http://today.msnbc.msn.com/id/27578186/ |tiêu đề=Eminem's mom gives her side of the story |nhà xuất bản=Today.msnbc.msn.com |ngày tháng=Novemberngày 6, tháng 11 năm 2008 |ngày truy cập=Mayngày 24, tháng 5 năm 2010}}</ref><ref>{{citechú thích booksách|url=https://books.google.com/books?id=7bCBYl1V2xAC&pg=PA58&lpg=PA58&dq=dresden+michigan+eminem&source=bl&ots=3TNVvqN5YE&sig=lGVEYC2qRZXUhMNKWPYILyCPibk&hl=en&ei=XvE0Tpq8C-P40gHk44SJDA&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=6&ved=0CDYQ6AEwBQ#v=onepage&q=dresden%20michigan%20eminem&f=false |title=Happy days |publisher=Spin |date= August 2010|accessdate=Julyngày 31, tháng 7 năm 2011}}</ref> Khi lên thiếu niên, Eminem viết nhiều lá thư cho bố anh; theo lời Debbie, tất cả các bức thư đều trở lại với dòng chữ "Trả lại người gửi."<ref name="RS99"/> Eminem trong trí nhớ của người thân và bạn bè là một đứa trẻ vui vẻ nhưng "hơi cô độc" và thường bị bắt nạt. Một trong những kẻ bắt nạt, De'Angelo Bailey, làm Eminem chấn thương nặng ở đầu; Debbie Nelson làm đơn kiện trường học vào năm 1982 nhưng bị bác bỏ một năm sau.<ref name="SL00"/>
 
Eminem trải qua quãng đời trai trẻ của mình với những người ở tầng lớp hạ-trung lưu, chủ yếu là khu người Mỹ gốc Phi ở Detroit.<ref name="RS99"/> Anh và Debbie là một trong ba hộ gia đình người da trắng ở dãy nhà của họ, trong khi Eminem nhiều lần bị đánh bởi nhóm thanh niên người da màu.<ref name="RS99"/> Khi còn nhỏ anh thích kể truyện với mong ước trở thành họa sĩ truyện tranh trước khi tới với [[hip hop]].<ref name="Noshame?">{{citechú newsthích báo|url=http://articles.latimes.com/2000/may/14/entertainment/ca-29770|title=Has He No Shame?|last=Hilburn|first=Robert|work=The Los Angeles Times|publisher=Tribune Company|date=Mayngày 14, tháng 5 năm 2000|accessdate=Marchngày 11, tháng 3 năm 2012}}</ref> Eminem nghe bài hát rap đầu tiên ("Reckless" của [[Ice-T]]) trong nhạc phim ''[[Breakin']]'', một món quà từ Ronnie Polkinghorn, người thân của bà Debbie, người sau này hướng dẫn về âm nhạc cho anh. Khi Polkinghorn tự tử năm 1991, Eminem không nói chuyện trong nhiều ngày và cũng không dự đám tang.<ref name="RS99"/><ref>{{citechú thích booksách|url= https://books.google.com/books?id=W4r6SQiF5TsC&pg=PT55&source=bl&ots=MErzpqTXLk&sig=nYu-cuDmVQl0RYtysz9TveYonus&hl=en&sa=X&ved=0ahUKEwj4ytiZ-fLKAhUQCY4KHaZaBIoQ6AEIITAC#v=onepage&f=false|title=The Dark Story of Eminem|author= Nick Hasted|publisher=Music Sales Group|year= 2011|page= 55|isbn= 9781849384582}}</ref>
 
Cuộc sống của Eminem hiếm khi yên ả; anh thường tranh cãi với mẹ, người được một nhân viên xã hội miêu tả là "rất đáng ngờ, gần như hoang tưởng". Khi con trai bà trở nên nổi tiếng, Debbie nổi giận với ý kiến cho rằng bà thiếu chuẩn mực của một người mẹ, và cho rằng bà đã có công chăm non, che chở anh và đóng góp vào thành công của anh. Vào năm 1987, Debbie cho phép Kimberly Ann "Kim" Scott ở lại nhà của họ; một vài năm sau, Eminem bắt đầu có tình cảm với Scott.<ref name="SL00"/> Sau khi mất ba năm chỉ để học lớp 9 do [[trốn học]] và điểm kém,<ref name="Britannica"/> anh bỏ học tại trường [[Lincoln High School (Warren, Michigan)|Lincoln High School]] năm 17 tuổi. Mặc dù có hứng thú với [[tiếng Anh]], anh chưa bao giờ khám phá văn học cũng như ghét các môn toán và xã hội.<ref name="RS10"/> Eminem đi làm nhiều công việc để giúp mẹ mình trả phí sinh hoạt, nhưng sau đó xác nhận rằng bà cũng hay đuổi anh ra ngoài. Khi bà ra ngoài chơi bingo, anh sẽ vặn thật to chiếc đài và ngồi viết các ca khúc.<ref name="RS99"/>
Dòng 107:
Eminem sau đó ký hợp đồng với FBT Productions của Jeff và Mark Bass, và thu album đầu tiên ''[[Infinite (album của Eminem)|Infinite]]'' với hãng thu âm [[Web Entertainment]] của FBT.<ref>{{harvnb|Bozza|2003|p=15}}</ref> Một trong các chủ đề trong ca từ của ''Infinite'' là sự khó khăn khi phải nuôi lớn cô con gái mới sinh, Hailie Jade Scott Mathers, mà trong tay không có nhiều tiền. Trong thời gian này phong cách gieo vần của Eminem, chịu ảnh hưởng từ [[Nas]], [[Esham]] và AZ, thiếu tính bạo lực khôi hài mà anh thể hiện sau này.<ref>{{harvnb|Bozza|2003|p=16}}</ref> Các DJ ở Detroit hầu như không quan tâm tới ''Infinite'', và phản hồi mà Eminem nhận được ("Sao cậu không làm nhạc rock & roll ấy?") dẫn tới việc anh bắt đầu làm các ca khúc thể hiện thái độ tức giận và khó chịu hơn.<ref name="RS99"/> Eminem và Kim Scott thời gian này sống trong một khu dân cư nhiều tội phạm, hậu quả là nhà anh nhiều lần bị trộm cướp viếng thăm.<ref name="RS99"/> Eminem nấu ăn và rửa bát với thu nhập tối thiểu tại Gilbert's Lodge, một nhà hàng ở [[St. Clair Shores, Michigan|St. Clair Shores]].<ref>{{harvnb|Bozza|2003|p=14}}</ref> Người chủ cũ của anh miêu tả Eminem là một nhân viên gương mẫu khi làm việc 60 tiếng một tuần sau khi Hailie ra đời.<ref name="SL00"/> Anh bị buộc thôi việc ngay trước dịp Giáng sinh, và nói rằng mình chỉ có "bốn mươi đô để mua tặng con bé thứ gì đó."<ref name="RS99"/> Sau khi ra ''Infinite'', các vấn đề cá nhân và việc lạm dụng thuốc từng khiến anh tìm tới cái chết.<ref name="allmusicbio"/> Tháng 3 năm 1997 anh bị đuổi khỏi Gilbert's Lodge lần cuối cùng và số trong [[nhà di động]] của mẹ anh cùng với Kim và Hailie.<ref name="SL00"/>
 
[[FileTập tin:Eminem-06-mika.jpg|thumb|170px|Eminem ở Đức năm 1999]]
Eminem thu hút nhiều sự chú ý hơn với "Slim Shady", một hình tượng bạo lực và bệnh hoạn. Nhân vật này, "một tên côn đồ buôn ma túy khát máu, bắn ra những giai điệu mạnh mẽ điên cuồng về giết người, hiếp dâm, ma túy và sống trong luật rừng", đã cho phép anh có thể biểu lộ sự giận dữ của mình.<ref name="SL00"/> Mùa xuân năm 1997 anh thu EP đầu tiên, ''[[Slim Shady EP]]'', và được [[Web Entertainment]] phát hành cuối năm đó.<ref name="RS99"/> EP ngoài nói nhiều tới chuyện sử dụng ma túy, các hành vi tình dục, sự bất ổn về tinh thần và nạn bạo lực, cũng khám phá các chủ đề nghiêm túc hơn như đương đầu với cảnh nghèo túng, với những khó khăn trong hôn nhân và gia đình, cũng như cho thấy phản biện thẳng thắn, tự ti của Eminem.<ref name="allmusicbio"/> Tạp chí hip-hop ''[[The Source (tạp chí)|The Source]]'' viết về Eminem trong mục "Unsigned Hype" vào tháng 3 năm 1998.<ref name="Bozza 81">{{harvnb|Bozza|2003|p=81}}</ref>
 
Sau khi bị đuổi khỏi nhà mình, Eminem chuyển tới [[Los Angeles]] để tranh tài tại cuộc thi Rap Olympics 1997. Sau khi anh đứng ở vị trí thứ hai, người của [[Interscope Records]] tới xem đã gửi một đĩa của ''Slim Shady EP'' tới CEO [[Jimmy Iovine]] của công ty này. Iovine mở chiếc đĩa cho nhà sản xuất [[Dr. Dre]], người nhớ lại khoảnh khắc đó: "trong cả sự nghiệp trong ngành công nghiệp âm nhạc, tôi chưa từng tìm thấy điều gì trong một chiếc đĩa demo hay CD. Khi Jimmy bật nó lên, tôi nói, 'Đi tìm anh chàng này. Ngay lập tức.{{'"}} Mặc dù bị các cộng sự chỉ trích vì ký hợp đồng với một rapper da trắng, Iovine vẫn tự tin: "Tôi không quan tâm dù da cậu màu tím đi chăng nữa; nếu cậu thấy thoải mái, tôi sẽ làm việc với cậu."<ref name=RS99>{{cite journal| last =Bozza| first =Anthony| date =Aprilngày 29, tháng 4 năm 1999| title =Eminem Blows Up| journal =[[Rolling Stone]]| volume = | issue =811 | page = | publisher =Wenner Media LLC| location =[[Thành phố New York]] | issn =0035-791X | url =http://www.rollingstone.com/music/news/eminem-blows-up-20091105| accessdate =Marchngày 9, tháng 3 năm 2013}}</ref> Dre là thần tượng thời niên thiếu của Eminem, và anh từng khá lo lắng khi làm việc với ông trong một album: "Tôi không muốn trở nên bị ám ảnh bởi danh vọng hay nịnh nọt ông ấy quá &nbsp;... Tôi chỉ là một cậu bé da trắng đến từ Detroit. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy các ngôi sao, nói gì tới Dr. Dre."<ref name="Bozza24">Bozza, 2003. p. 24</ref> Anh dần thoải mái hơn khi làm việc với Dre tham gia sau nhiều buổi thu chất lượng.<ref name="Stubbs58">Stubbs, 2006. tr. 58</ref>
 
Eminem phát hành ''[[The Slim Shady LP]]'' vào tháng 2 năm 1999. Mặc dù là một trong những album nổi nhất năm (được chứng nhận bạch kim ba lần trong năm),<ref name="rotn">{{Chú thích web|ngày truy cập=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url=http://www.rockonthenet.com/artists-e/eminem_main.htm|tiêu đề=Timeline|nhà xuất bản=Rock on the Net}}</ref> anh vẫn bị cáo buộc bắt chước phong cách và chủ đề của rapper Cage.<ref>{{citechú thích newsbáo |first=Neil|last=Drumming|title=Smut Peddlers: Split-Level Raunch |url=http://www.highbeam.com/doc/1P2-417506.html |work=Washington Post|date=Februaryngày 14, tháng 2 năm 2001 |accessdate=Septemberngày 9, tháng 9 năm 2008}}</ref><ref>{{citechú thích newsbáo |url=http://www.accessmylibrary.com/coms2/summary_0286-11923595_ITM |first=Matt |last=Dearborn |author2=Duke |title=Interview: His name is not Slim Shady |publisher=University Wire|date=Decemberngày 1, tháng 12 năm 2005|accessdate=Septemberngày 9, tháng 9 năm 2008}}</ref> Sự nổi tiếng của album đi kèm với tranh cãi về lời bài hát; cụ thể trong "[['97 Bonnie and Clyde]]" Eminem nói về chuyến đi chơi với cô con gái nhỏ nhưng đồng thời là để vứt đi cơ thể của vợ mình, và trong "[[Guilty Conscience (bài hát)|Guilty Conscience]]" anh khuyến khích một người đàn ông giết vợ và người yêu của anh ta. Guilty Conscience đánh dấu tình bạn và sự gắn bó về âm nhạc của Dr. Dre và Eminem. Họ sau đó hợp tác trong một số bản hit khác như ("[[Forgot About Dre]]" và "What's the Difference" trong album ''[[2001 (album của Dr. Dre)|2001]]'' của Dre và "[[Bitch Please II]]" trong ''[[The Marshall Mathers LP]]'', "Say What You Say" trong ''[[The Eminem Show]]'', "[[Encore/Curtains Down]]" trong ''[[Encore (album của Eminem)|Encore]]'', cũng như "[[Old Time's Sake]]" và "[[Crack a Bottle]]" trong ''[[Relapse (album của Eminem)|Relapse]]''). Dre đều ít nhất một lần xuất hiện với tư cách khách mời trong mọi album Eminem phát hành dưới tên hãng [[Aftermath Entertainment|Aftermath]].<ref>{{Chú thích web|ngày truy cập=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url=http://www.sptimes.com/2006/01/16/Artsandentertainment/Eminem_and_his_ex_wif.shtml|tiêu đề=Eminem and his ex-wife remarry |nhà xuất bản=[[St. Petersburg Times]]}}</ref>
 
===2000–02: ''The Marshall Mathers LP'' và ''The Eminem Show''===
 
[[FileTập tin:Eminem at Voodoo 2000.jpg|thumb|Eminem và Proof tại [[Voodoo Experience]] vào tháng 10 năm 2000]]
''The Marshall Mathers LP'' được phát hành tháng 5 năm 2000. Album bán được 1.760.000 bản trong tuần đầu tiên, phá kỷ lục tại Mỹ dành cho album hip hop bán nhanh nhất (''[[Doggystyle]]'' của [[Snoop Dogg]]) vầ album solo bán nhanh nhất ''[[...Baby One More Time (album)|...Baby One More Time]]'' của [[Britney Spears]]).<ref name="MMLP"/><ref name="criminal">"[http://news.bbc.co.uk/2/hi/entertainment/1271224.stm Eminem's criminal record]", ''BBC News'', 11/4/2001</ref> Đĩa đơn đầu tiên trong album, "[[The Real Slim Shady]]", thành công bất chấp nhiều tranh cãi về những lời lăng mạ và khẳng định gây nghi ngờ của Eminem về những người nổi tiếng.<ref>{{harvnb|Bozza|2003|p=60}}</ref> Trong đĩa đơn thứ hai, "[[The Way I Am (bài hát của Eminem)|The Way I Am]]", anh nói về áp từ từ phía công ty thu âm buộc anh phải đưa đĩa đơn "[[My Name Is]]" tới thành công. Trong đĩa đơn thứ ba, "[[Stan (bài hát)|Stan]]" (lấy mẫu bài hát "[[Thank You (bài hát của Dido)|Thank You]]" của [[Dido (ca sĩ)|Dido]]) Eminem nói về sự nổi tiếng mới đến với mình bằng câu chuyện về người hâm mộ tự sát và giết bạn gái đang mang bầu của anh ta.<ref name="Fox News">{{citechú newsthích báo|accessdate=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url=http://www.foxnews.com/story/0,2933,194705,00.html|title=Eminem's Biography |publisher=Fox News}}</ref> Tạp chí ''[[Q (tạp chí)|Q]]'' chọn "Stan" là bài hát rap vĩ đại thứ ba mọi thời đại,<ref>{{Chú thích web|ngày truy cập=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url=http://www.rocklistmusic.co.uk/q150lists.htm|tiêu đề=150 Greatest Rock Lists Ever|nhà xuất bản=Rock List Music}}</ref> trong khi Top40-Charts.com đặt bài hát ở vị trí thứ 10.<ref>{{Chú thích web|ngày truy cập=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url=http://www.top40-charts.com/features/top100_greatest_hiphop2.php|tiêu đề=25 years of Hip-hop|nhà xuất bản=Top 40 Charts}}</ref> Bài hát còn đứng thứ 296 trong danh sách "500 Greatest Songs of All Time" (''500 bài hát vĩ đại nhất mọi thời đại'') của tạp chí ''[[Rolling Stone]]''.<ref>{{Chú thích web|ngày truy cập=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url=http://www.rollingstone.com/news/coverstory/500songs|tiêu đề=The RS 500 Greatest Songs of All Time |work=Rolling Stone|url lưu trữ = https://web.archive.org/web/20080423025049/http://www.rollingstone.com/news/coverstory/500songs |ngày lưu trữ =Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url hỏng=yes}}</ref> Tháng 7 năm 2000, Eminem trở thành nghệ sĩ da trắng đầu tiên xuất hiện trên bìa tạp chí ''The Source''.<ref name="Bozza 81"/> ''The Marshall Mathers LP'' được chứng nhận bạch kim 11 lần từ RIAA.
 
Tại lễ trao [[giải Grammy lần thứ 43]] vào năm 2001 Eminem biểu diễn "Stan" cùng [[Elton John]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.mtv.com/news/articles/1439679/20010222/eminem.jhtml|tiêu đề= Eminem, Elton's 'Stan' Duet Proves Anticlimactic|họ 1=Basham|tên 1=David|ngày tháng=Februaryngày 22, tháng 2 năm 2001|nhà xuất bản=MTV News|ngày truy cập=Decemberngày 30, tháng 12 năm 2009}}</ref> Tổ chức [[Gay & Lesbian Alliance Against Defamation]] (GLAAD, một tổ chức xem lời bài hát của Eminem là [[ghê sợ đồng tính luyến ái|kì thị người đồng tính]]) phê phán quyết định biểu diễn cùng Eminem của John.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.mtv.com/news/articles/1439280/20010210/eminem.jhtml|tiêu đề=Eminem, Elton John To Duet At Grammys|họ 1=Basham|tên 1=David|ngày tháng=Februaryngày 10, tháng 2 năm 2001|nhà xuất bản=MTV News|ngày truy cập=Decemberngày 30, tháng 12 năm 2009}}</ref> Tờ ''[[Entertainment Weekly]]'' xếp màn biểu diễn này trong danh sách "xuất sắc nhất" cuối thập kỷ: "Cái ôm đó được cả thế giới biết đến. Eminem, người bị chỉ trích vì lời bài hát kì thị, đã chia sẻ sân khấu để biểu diễn "Stan" với một biểu tượng đồng tính, điều luôn đáng nhớ trong bất kỳ hoàn cảnh nào."<ref>Geier, Thom; Jensen, Jeff; Jordan, Tina; Lyons, Margaret; Markovitz, Adam; Nashawaty, Chris; Pastorek, Whitney; Rice, Lynette; Rottenberg, Josh; Schwartz, Missy; Slezak, Michael; Snierson, Dan; Stack, Tim; Stroup, Kate; Tucker, Ken; Vary, Adam B.; Vozick-Levinson, Simon; Ward, Kate (11/12/2009), "The 100 greatest movies, TV shows, albums, books, characters, scenes, episodes, songs, dresses, music videos and trends that entertained us over the past 10 years". ''Entertainment Weekly.'' (1079/1080):74-84</ref> Vào ngày 21 tháng 2, ngày lễ trao giải diễn ra, GLAAD tổ chức buổi biểu tình bên ngoài [[Staples Center]] (địa điểm tổ chức giải Grammy 2001).<ref>{{Chú thích web|url=http://www.mtv.com/news/articles/1439666/20010221/eminem.jhtml|tiêu đề=Eminem Protesters Few But Passionate|họ 1=Boone|tên 1=Christian|ngày tháng=Februaryngày 21, tháng 2 năm 2001|nhà xuất bản=MTV News|ngày truy cập=Decemberngày 30, tháng 12 năm 2009}}</ref> Vào năm 2001 Eminem xuất hiện trong [[Up in Smoke Tour]] với các rapper Dr. Dre, [[Snoop Dogg]], [[Xzibit]] và [[Ice Cube]]<ref name="up in smoke">{{citechú newsthích báo|last=Pareles|first=Jon|title=Four Hours Of Swagger From Dr. Dre And Friends|url=http://www.slate.com/id/2114375/|work=The New York Times|date=Julyngày 17, tháng 7 năm 2000|accessdate=Mayngày 24, tháng 5 năm 2008}}</ref> và trong [[Family Values Tour]] với [[Limp Bizkit]],<ref>{{harvnb|Bozza|2003|p=70}}</ref> đồng thời là ngôi sao chính trong [[Anger Management Tour]] với [[Papa Roach]], [[Ludacris]] và [[Xzibit]].
 
''[[The Eminem Show]]'' phát hành tháng 5 năm 2002. Album đoạt ngôi quán quân trên nhiều bảng xếp hạng và bán ra trên 1,332&nbsp;triệu bản trong tuần đầu.<ref name="rotn"/> Single "[[Without Me]]", chế nhạo [[Limp Bizkit]], [[Dick Cheney]] và [[Lynne Cheney]], [[Moby]] và nhiều người khác. ''The Eminem Show'' (được chứng nhận bạch kim 10 lần từ [[RIAA]]) nói về các tác động của sự nổi tiếng đối với anh, mối quan hệ với người vợ và con gái cùng vị thế trong giới hip-hop, về việc tấn công một người đàn ông mà Eminem trông thấy đang hôn vợ của anh năm 2000. Mặc dù một số track biểu lộ sự giận dữ rất rõ ràng, [[Stephen Thomas Erlewine]] của [[AllMusic]] cho rằng ''The Eminem Show'' ít khiêu khích hơn ''The Marshall Mathers LP''.<ref name="eminem show">{{Chú thích web|họ 1=Erlewine|tên 1=Stephen Thomas|lk tác giả 1=Stephen Thomas Erlewine|tiêu đề="The Eminem Show" – Overview|url= http://www.allmusic.com/cg/amg.dll?p=amg&sql=Aiypzefrk2gf6|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20071201143458/http://www.allmusic.com/cg/amg.dll?p=amg&sql=Aiypzefrk2gf6|ngày lưu trữ=Decemberngày 1, tháng 12 năm 2007|nhà xuất bản=AllMusic|năm=2002|ngày truy cập=Februaryngày 1, tháng 2 năm 2008}}</ref> [[L. Brent Bozell III]], người từng chỉ trích ''The Marshall Mathers LP'' vì lời bài hát mang tính ghét phụ nữ, nói nhiều tới việc sử dụng quá nhiều từ tục tĩu của ''The Eminem Show'' và gọi Eminem là "Eminef" vì sự xuất hiện liên tục của từ "[[motherfucker]]" trong album.<ref name="tasteless">{{Chú thích web|họ 1 = Bozell |tên 1 = L. Brent III |lk tác giả 1 = L. Brent Bozell III |tiêu đề = Eminem – Tasteless, Incoherent, and Tired |work=[[Media Research Center]]|nhà xuất bản=[[Creators Syndicate]] |ngày tháng = Julyngày 24, tháng 7 năm 2002 |url = http://www.mediaresearch.org/bozellcolumns/entertainmentcolumn/2002/col20020724.asp |ngày truy cập =Januaryngày 28, tháng 1 năm 2008|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20020803064526/http://www.mediaresearch.org/BozellColumns/entertainmentcolumn/2002/col20020724.asp|ngày lưu trữ=2002-08-03}}</ref> ''The Eminem Show'' là album bán chạy nhất năm 2002.<ref>[https://www.webcitation.org/5v9ttqj9g?url=http://www.ifpi.org/content/library/top50-2002.pdf]. [[IFPI]]. (PDF)</ref>
 
===2003–07: ''Encore'' và tạm dừng hoạt động âm nhạc===
[[FileTập tin:Eminem Live.jpg|thumb|200px|right|Eminem tại Anger Management Tour để quảng bá cho ''Encore'']]
 
''[[Encore (album của Eminem)|Encore]]'' được phát hành năm 2004. Đĩa đơn đầu tiên, "[[Just Lose It]]", gây chú ý vì chứa ca từ tiêu cực nhắm tới [[Michael Jackson]]. Vào ngày 12 tháng 10 năm 2004, một tuần sau khi "Just Lose It" ra mắt, Jackson gọi điện cho chương trình phát thanh của [[Steve Harvey]] ở Los Angeles bày tỏ sự không hài lòng đối với video bài hát (video lại lại một số tai tiếng của Jackson như lạm dụng tình dục trẻ em, phẫu thuật tạo hình hay tai nạn làm cháy mái tóc của ông năm 1984). Nhiều người thân và người hâm mộ của Jackson tỏ ý phản đối như [[Stevie Wonder]] (gọi video là hành động "đánh kẻ ngã ngựa" và " trò vớ vẩn")<ref name="MJ">{{Chú thích web|ngày truy cập=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url=http://allhiphop.com/2004/12/06/stevie-wonder-has-harsh-words-for-eminem/|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20050305053630/http://www.allhiphop.com/hiphopnews/?ID=3825|ngày lưu trữ=Marchngày 5, tháng 3 năm 2005|tiêu đề=Stevie Wonder has words to say about Eminem|nhà xuất bản=AllHipHop}}</ref> và Steve Harvey.<ref name="MJ" /> Video cũng nhại lại [[Pee-wee Herman]], [[MC Hammer]] và [[Madonna (ca sĩ)|Madonna]] trong giai đoạn ''[[Blond Ambition World Tour|Blond Ambition]]''.<ref>{{citechú newsthích báo|accessdate=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url=http://www.accessmylibrary.com/coms2/summary_0286-7179448_ITM|title=Eminem's new album doesn't build on previous success. |publisher=[[The Philadelphia Inquirer]] | first=Dan | last=DeLuca | date=Novemberngày 12, tháng 11 năm 2004|archiveurl= https://web.archive.org/web/20080429214746/http://www.accessmylibrary.com/coms2/summary_0286-7179448_ITM|archivedate=Aprilngày 29, tháng 4 năm 2008}}</ref> [["Weird Al" Yankovic]], người hát nhại "[[Lose Yourself]]" với tên "Couch Potato" trong album ''[[Poodle Hat]]'' của ông năm 2003, nói với ''[[Chicago Sun-Times]]'' về sự phản kháng của Jackson: "Năm ngoái, Eminem buộc thôi dừng sản xuất video parody bài 'Lose Yourself' vì cậu ta nghĩ nó sẽ làm hỏng hình ảnh và sự nghiệp cậu ta. Cho nên tôi không lạ gì sự trớ trêu mà Michael phải qua."<ref name="losing it">{{citechú newsthích báo|last=Thomas|first=Mike|title=Is the King of Pop losing it?|url=http://www.suntimes.com/output/entertainment/cst-ftr-jacko14.html|archiveurl=https://web.archive.org/web/20041016051807/http://www.suntimes.com/output/entertainment/cst-ftr-jacko14.html|archivedate=Octoberngày 16, tháng 10 năm 2004|work=Chicago Sun-Times|date=Octoberngày 14, tháng 10 năm 2004|publisher=Internet Archive Wayback Machine|accessdate=Octoberngày 16, tháng 10 năm 2004}}</ref> Mặc dù [[BET|Black Entertainment Television]] ngừng không phát video nữa, MTV thông báo vẫn tiếp tục chiếu video này. Tờ ''The Source'', thông qua CEO [[Benzino|Raymond "Benzino" Scott]], kêu gọi dỡ bỏ video, loại bài hát ra khỏi album còn Eminem phải công khai xin lỗi Jackson.<ref>{{citechú newsthích báo|last=Donaldson-Evans|first=Catherine|accessdate=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url= http://www.foxnews.com/story/0,2933,138350,00.html| title=Jackson Bashes Eminem in Fox Exclusive |publisher=Fox News | date=Novemberngày 12, tháng 11 năm 2004}}</ref> Năm 2007 Jackson và Sony mua lại [[Famous Music]] từ [[Viacom]], giúp Jackson có trong tay bản quyền các bài hát của Eminem, [[Shakira]], [[Beck]] và nhiều người khác.<ref name="2007 music deal">{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/rockdaily/index.php/2007/05/31/the-police-plan-mtv-unplugged-performance-michael-jackson-buys-rights-to-eminem-tunes-and-more/|tiêu đề=Michael Jackson buys rights to Eminem tunes and more|work=Rolling Stone|ngày tháng=Mayngày 31, tháng 5 năm 2007|url lưu trữ= https://web.archive.org/web/20071227062128/http://www.rollingstone.com/rockdaily/index.php/2007/05/31/the-police-plan-mtv-unplugged-performance-michael-jackson-buys-rights-to-eminem-tunes-and-more/|ngày lưu trữ=Decemberngày 27, tháng 12 năm 2007}}</ref>
 
Mặc dù đĩa đơn đầu tiên có chủ đề hài hước, ''Encore'' lại khám phá những vấn đề nghiêm túc với bài hát phản chiến "[[Mosh (bài hát)|Mosh]]". Bài hát chỉ trích Tổng thống [[George W. Bush]] trong lời bài hát như "to disarm, this weapon of mass destruction that we call our president" (ám chỉ việc Bush lấy lý do đưa quân tới Iraq là do [[vũ khí hủy diệt hàng loạt]], nhưng chính ông mới là thứ nguy hiểm đó).<ref>{{citechú newsthích báo|last=Reid|first=Shaheem|title=Eminem Targets Bush on New Track 'Mosh'|url=http://www.mtv.com/news/articles/1492827/20041020/eminem.jhtml?headlines=true|publisher=MTV News|date=Octoberngày 20, tháng 10 năm 2004|accessdate=Februaryngày 1, tháng 2 năm 2008}}</ref> Vào ngày 25 tháng 10 năm 2004, một tuần trước [[bầu cử tổng thống Hoa Kỳ]] [[Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 2004|2004]], Eminem phát hành video âm nhạc của "Mosh" trên mạng Internet.<ref>{{citechú newsthích báo|last=Reid|first=Shaheem|title=Eminem's 'Mosh' Video Hits the Internet|url= http://www.mtv.com/news/articles/1493010/20041025/eminem.jhtml|publisher=MTV News|date=Octoberngày 25, tháng 10 năm 2004|accessdate=Februaryngày 1, tháng 2 năm 2008}}</ref> Trong video dưới dạng hoạt hình, Eminem tập hợp một đội quân (trong đó có rapper [[Lloyd Banks]]) các nạn nhân dưới sự [[Nhiệm kỳ tổng thống của George W. Bush|cai trị của Bush]] và dẫu đầu họ tới [[Nhà Trắng]]. Khi họ xông vào, người ta mới biết họ ở đó để đăng ký bầu cử. Sau khi Bush tái đắc cử, đoạn kết của video được thay đổi với hình ảnh Eminem và những người biểu tình chiếm Nhà Trắng trong lúc tổng thống đang phát biểu.<ref>{{Chú thích web|ngày truy cập=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url=http://www.highbeam.com/doc/1G1-123840513.html|tiêu đề=Race for the White House: Eminem joins fight.(News) |work=[[Daily Mirror|The Mirror]]}}</ref>
 
Vào năm 2005 Eminem xếp thứ 58 trong cuốn sách của [[Bernard Goldberg]], ''[[100 People Who Are Screwing Up America]]''.<ref>{{harv|Goldberg|2005|p=139}}</ref> Goldberg trích dẫn một mục báo vào năm 2001 bởi [[Bob Herbert]] của tờ ''[[The New York Times]]'', trong đó Herbert viết "Trong thế thế giới của Eminem, mọi phụ nữ đều là [[gái mại dâm|những mụ điếm]] và anh ta sẵn sàng hiếp và giết chết họ",<ref>{{citechú newsthích báo |last = Herbert|first = Bob|authorlink = Bob Herbert |title = In America; A Musical Betrayal|work=New York Times|date = Januaryngày 29, tháng 1 năm 2001|url = http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=9F03E4DA103FF93AA15752C0A9679C8B63&sec=&spon=&pagewanted=all|accessdate =Octoberngày 6, tháng 10 năm 2007}}</ref> và bài hát "No One's Iller" trong ''[[Slim Shady EP]]'' làm ví dụ cho sự ghét nữ giới của rapper này.<ref>{{harvnb|Goldberg|2005|p=140}}</ref> Mùa hè năm đó Eminem thực hiện chuyến lưu diễn ba năm tại Hoa Kỳ khi Anger Management 3 Tour có sự tham gia của [[50 Cent]], [[G-Unit]], [[Lil Jon]], [[D12]], [[Obie Trice]] và [[The Alchemist (ca sĩ)|The Alchemist]]. Vào tháng 8 anh hủy bỏ đợt diễn tại châu Âu và thông báo rằng anh vừa bắt đầu quá trình phục hồi khỏi "sự lệ thuộc vào thuốc ngủ".<ref name="abc">{{Chú thích web|ngày truy cập=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url= http://www.abc.net.au/news/arts/theshallowend/200508/s1441976.htm|tiêu đề=Eminem in rehab|nhà xuất bản=Australian Broadcasting Corporation|url lưu trữ= https://web.archive.org/web/20080303011757/http://www.abc.net.au/news/arts/theshallowend/200508/s1441976.htm|ngày lưu trữ=Marchngày 3, tháng 3 năm 2008}}</ref> ''[[Curtain Call: The Hits]]'' phát hành 6 tháng 12 năm 2005 dưới tên hãng Aftermath Entertainment,<ref>[http://www.rapsearch.com/news/article/eminem-s-curtain-call-3-new-songs-and-bonus-live-performance]. RapSearch.Com. {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20090415083535/http://www.rapsearch.com/news/article/eminem-s-curtain-call-3-new-songs-and-bonus-live-performance |date =2009-04- ngày 15 tháng 4 năm 2009}}</ref> bán ra trong tuần đầu tiên gần 441.000 bản tại Hoa Kỳ, và là album thứ tư liên tiếp của Eminem đoạt ngôi quán quân trên ''Billboard'' Hot 200.<ref>Harris, Chris (14 tháng 12 năm 2005). [http://www.mtv.com/news/articles/1518100/20051214/eminem.jhtml "Eminem Scores Fourth No.1 Bow With Curtain Call"]. mtv.com. MTV Networks.</ref> Album được chứng nhận bạch kim hai lần từ [[RIAA]].
 
===2008–09: ''Relapse'' và ''Refill''===
[[FileTập tin:Eminem at DJ hero party with d12.jpg|thumb|170px|left|Eminem biểu diễn cùng D12 tháng 5 năm 2009]]
Eminem xuất hiện trên kênh Shade 45 Sirius của anh vào tháng 9 năm 2008 với tuyên bố rằng mình đang trong quá trình tập trung vào việc sản xuất album mới.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rapbasement.com/eminem/091908-trick-trick-says-eminem-is-bringing-slim-shady-back.html |tiêu đề=''RapBasement.com'' – Guess Who's Back, Back Again, Shady's Back, Tell A Friend (19/9/2008) |nhà xuất bản=Rapbasement.com |ngày tháng=Septemberngày 19, tháng 9 năm 2008 |ngày truy cập=Mayngày 24, tháng 5 năm 2010}}</ref> Interscope xác nhận album mới<ref>Jokesta (19/9/2008). [http://www.defsounds.com/news/Reps_confirm_new_eminem_album_may_hit_stores_4th_quarter Reps Confirm New Eminem Album May Hit Stores 4th Quarter] DefSounds. {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20080920093059/http://www.defsounds.com/news/Reps_confirm_new_eminem_album_may_hit_stores_4th_quarter |date =2008-09- ngày 20 tháng 9 năm 2008}}</ref> sẽ được phát hành vào mùa xuân 2009.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.billboard.com/articles/news/266116/exclusive-eminem-talks-new-album-book |tiêu đề=Exclusive: Eminem Talks New Album, Book |work=Billboard |ngày tháng=Septemberngày 14, tháng 9 năm 2009 |ngày truy cập=Mayngày 24, tháng 5 năm 2010 |url hỏng=yes |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20130523170020/http://www.billboard.com/articles/news/266116/exclusive-eminem-talks-new-album-book |ngày lưu trữ=Tháng 5 23, 2013 }}</ref> Vào tháng 12 năm 2008 Eminem tiết lộ thêm một số chi tiết của album có tên ''Relapse'': "Tôi và Dre dang trở lại phòng thu như xưa. Dre sẽ sản xuất phần lớn các track trong 'Relapse'. Chúng tôi sẽ về với phong cách tinh quái trước kia&nbsp;... tôi chỉ có thể tiết lộ thế thôi."<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rapbasement.com/eminem/121208-eminem-talks-about-his-new-album-relapse-dre-to-produce-most-no-stan-part-2.html |tiêu đề=Eminem Gives Details On His Relapse |nhà xuất bản=Rapbasement.com |ngày tháng=Decemberngày 12, tháng 12 năm 2008 |ngày truy cập=Mayngày 24, tháng 5 năm 2010}}</ref>
 
Theo tin từ một cuộc họp báo vào tháng 3 năm 2009, Eminem sẽ ra mắt hai album mới. Đầu tiên là ''Relapse'' vào ngày 19 tháng 5. Đĩa đơn và video âm nhạc đầu tiên, "[[We Made You]]" được phát hành trước đó vào ngày 7 tháng 4.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rapbasement.com/eminem/030509-eminem-will-release-two-new-albums-this-year-details-and-dates-included-read-here.html |tiêu đề=Eminem Relapses Twice; 2 NEW Albums Coming |nhà xuất bản=Rapbasement.com |ngày tháng=Marchngày 5, tháng 3 năm 2009 |ngày truy cập=Mayngày 24, tháng 5 năm 2010}}</ref> Dù ''Relapse'' không quá thành công về daonh thu như các album trước, nó vẫn nhận được nhiều ý kiến phê bình tích cực. ''Relapse'' được chọn là một trong các album số một năm 2009, bán được 5 triệu bản trên toàn thế giới. Vào ngày 30 tháng 10 anh có buổi biểu diễn chính đầu tiên trong năm tại [[Voodoo Experience]] ở New Orleans.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Kaufman |tên 1=Gil |url=http://www.mtv.com/news/articles/1625294/20091102/eminem.jhtml |tiêu đề=– Eminem Rocks New Orleans' Voodoo Fest With First Full Concert of 2009 |work=MTV |ngày tháng=Novemberngày 2, tháng 11 năm 2009 |ngày truy cập=Mayngày 24, tháng 5 năm 2010}}</ref> Vào ngày 19 tháng 11 Eminem thông báo trên mạng rằng ''Relapse: Refill'' sẽ được lên kệ ngày 21 tháng 12. Album là bản tái phát hành của ''Relapse'' với 7 track mới, trong đó có "[[Forever (bài hát của Drake)|Forever]]". Eminem cho biết năm nay anh "muốn gửi tới cho người hâm mộ nhiều phong cách hơn như tôi đã dự định ban đầu" và hy vọng các bài hát trong ''The Refill'' sẽ giúp người hâm mộ bớt trống trải trước khi ''Relapse 2'' phát hành năm sau.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.nme.com/news/eminem/48492|tiêu đề=Eminem announces 'Relapse: Refill' album featuring five unreleased songs|work=NME |nhà xuất bản=[[IPC Media]]|ngày tháng=Novemberngày 20, tháng 11 năm 2009|ngày truy cập=Augustngày 21, tháng 8 năm 2011}}</ref>
 
===2010–11: ''Recovery'' và Bad Meets Evil===
[[FileTập tin:Eminem and Rihanna in Love the Way You Lie1.jpg|thumb|right|Eminem biểu diễn "Love the Way You Lie" với Rihanna tại E3 Expo Party 2010]]
Vào ngày 14 tháng 10 năm 2010, Eminem [[Twitter|tweet]]: "Sẽ không có Relapse 2". Mặc dù vậy album mới vẫn sẽ ra mắt và mang tên ''[[Recovery (album của Eminem)|Recovery]]'' và xác nhận điều này bằng việc tweet "RECOVERY" kèm theo đường dẫn tới website của mình. Eminem cho biết anh "ban đầu đã dự định ra ''Relapse 2'' năm ngoái." nhưng do "làm việc với nhiều nhà sản xuất mới nên ý tưởng về phần hai của ''Relapse'' nhạt dần" và anh "muốn làm một album hoàn toàn mới".<ref name="recovery"/> Album mới ra lò ngày 18 tháng 6.<ref name="recovery">{{Chú thích web|url=http://rapradar.com/2010/04/14/eminem-speaks-on-new-album-recovery |tiêu đề=Eminem Speaks On New Album Recovery |nhà xuất bản=Rap Radar |ngày tháng=Aprilngày 14, tháng 4 năm 2010 |ngày truy cập=Mayngày 21, tháng 5 năm 2010}}</ref> Tại Hoa Kỳ ''Recovery'' bán được 741.000 bản trong tuần đầu tiên, đứng đầu trên [[Billboard 200|''Billboard'' 200]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.mtv.com/news/articles/1642712/20100630/eminem.jhtml|tiêu đề=Eminem Notches Year's Highest Debut With Recovery|tên 1=Gil|họ 1=Kaufman|nhà xuất bản=MTV|ngày tháng=Junengày 30, tháng 6 năm 2010|ngày truy cập=Julyngày 1, tháng 7 năm 2010}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/957567/eminems-recovery-explodes-at-no-1-on-billboard-200-with-741000|tiêu đề=Eminem's 'Recovery' Explodes At No. 1 on Billboard 200 With 741,000|tên 1=Keith|họ 1=Caulfield|work=Billboard|ngày tháng=Junengày 30, tháng 6 năm 2010|ngày truy cập=Julyngày 1, tháng 7 năm 2010}}</ref> ''Recovery'' đứng đầu trên ''Billboard'' 200 trong năm tuần liên tiếp trong tông số 7 tuần quán quân của album.<ref name="RS-Rec5">{{Chú thích web |ngày truy cập=Augustngày 21, tháng 8 năm 2008 |url=http://www.rollingstone.com/music/news/17386/185805 |tiêu đề=Eminem's 'Recovery' Tops Chart for Fifth Week |họ 1=Kreps |tên 1=Daniel |work=Rolling Stone |url lưu trữ=https://www.webcitation.org/5s9P1vEhS?url=http://www.rollingstone.com/music/news/17386/185805 |ngày lưu trữ=Tháng 8 21, 2010 |dead-url=no" == DeadURL or "không }}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.biz/bbbiz/content_display/charts/chart_alert/e3iaea240932b26c233fbf8e445125fc885|tiêu đề=Eminem Won't Budge From No. 1 On Billboard 200; Lil Wayne Tops Digital Songs|work=Billboard|ngày truy cập=Decemberngày 21, tháng 12 năm 2010|ngày tháng=Augustngày 25, tháng 8 năm 2010|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20100828105942/http://www.billboard.biz/bbbiz/content_display/charts/chart_alert/e3iaea240932b26c233fbf8e445125fc885|ngày lưu trữ=2010-08-28|url hỏng=yes}}</ref>
 
''Billboard'' đưa tin ''Recovery'' là album bán chạy nhất năm 2010, giúp Eminem trở thành nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử Nielsen SoundScan có 2 album bán chạy nhất năm (album còn lại là ''The Eminem Show'').<ref>Caulfield, Keith (5/11/2011). [http://www.billboard.com/articles/news/473767/eminems-recovery-is-2010s-best-selling-album-katy-perrys-california-gurls-top "Eminem's 'Recovery' Is 2010's Best-Selling Album; Katy Perry's 'California Gurls' Top Digital Song"]. Billboard.com. Prometheus Media Group.</ref> ''Recovery'' cũng là album kỹ thuật số bán chạy nhất lịch sử.<ref>{{Chú thích web |url=http://music.yahoo.com/blogs/chart-watch/chart-watch-extra-eminem-bumps-off-gaga.html |tiêu đề=Chart Watch Extra: Eminem Bumps Off Gaga – Chart Watch |nhà xuất bản=New.music.yahoo.com |ngày tháng=Marchngày 4, tháng 3 năm 2011 |ngày truy cập=Marchngày 16, tháng 3 năm 2011 |ngày lưu trữ=Tháng 10 4, 2012 |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20121004144444/http://music.yahoo.com/blogs/chart-watch/chart-watch-extra-eminem-bumps-off-gaga.html |dead-url=no" == DeadURL or "không }}</ref> Đĩa đơn đầu tiên, "[[Not Afraid]]", được ra mắt ngày 29 tháng 4 và xuất phát trên ''Billboard'' Hot 100 ngay ở vị trí số một. "Not Afraid" được tiếp nối bằng "[[Love the Way You Lie]]", bài hát xuất phá ở vị trí thứ hai trước khi lên ngôi ở vị trí số một trên ''Billboard'' Hot 100.<ref>[{{BillboardURLbyName|artist=eminem|chart=Hot 100}} "Eminem Album & Song Chart History"]. Billboard. [[Nielsen Business Media]].</ref> Mặc dù "Love the Way You Lie" là đĩa đơn bán chạy nhất 2010 tại Anh Quốc, nó lại chưa từng lên vị trí số một tại đây (lần đầu kể từ năm 1969).<ref>Youngs, Ian (Decemberngày 21, tháng 12 năm 2010). [http://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-12039903 "Alex Da Kid: The Brit behind 2010's biggest hit"]. BBC.</ref> Dù còn một số phê bình vì sự thiếu ổn định, ''Recovery'' nhìn chung vẫn được đánh giá tích cực. {{As of|2010|11|21}}, Album có ba triệu bản được tiêu thụ tại Mỹ.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Jacobs |tên 1=Allen |url=http://www.hiphopdx.com/index/news/id.13114 |tiêu đề=Hip Hop Album Sales: The Week Ending 11/21/2010 &#124; Get The Latest Hip Hop News, Rap News & Hip Hop Album Sales |nhà xuất bản=HipHopDX |ngày tháng=Novemberngày 24, tháng 11 năm 2010 |ngày truy cập=Novemberngày 25, tháng 11 năm 2010}}</ref>
 
Eminem góp mặt tại BET Awards 2010<ref name="Jacobs">{{Chú thích web|url=http://www.hiphopdx.com/index/news/id.11506 |tiêu đề=Eminem to perform at 2010 BET awards|họ 1=Jacobs|tên 1=Allen|ngày truy cập=Junengày 18, tháng 6 năm 2010}}</ref> với hai ca khúc "Not Afraid" và "[[Airplanes, Part II]]" với [[B.o.B]], và biểu diễn tại buổi hòa nhạc Activison E3. Vào tháng 6 Eminem và [[Jay-Z]] thông báo sẽ diễn chung tại Detroit và New York tại các buổi diễn mang tên [[The Home & Home Tour]]. Hai concert đầu tiên nhanh chóng cháy vé khiến ban tổ chức bổ sung thêm một show nữa tại mỗi thành phố.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.artistdirect.com/entertainment-news/article/eminem-and-jay-z-announce-more-home-and-home-dates/7314183|tiêu đề=Eminem And Jay-z Announce More "Home & Home" Dates}}</ref> BET gọi Eminem là rapper số một thế kỷ XXI.<ref>[http://www.bet.com/video/top10rappers/2010/eminem-extended-interview-10-1-230310.html "Top 10 Rappers | Top 10 Rappers: Eminem Extended Interview"]. BET.com. Truy cập 16/11/2010.</ref> Anh mở màn [[MTV Video Music Awards 2010]] vào ngày 12 tháng 9 với "Not Afraid" và "Love the Way You Lie" với [[Rihanna]].<ref>[http://www.singersroom.com/news/6278/MTV-VMA-Recap-Stage-Rewind-with-Eminem-Rihanna-Taylor-Kanye-and-Bieber "MTV VMA Recap: Stage Rewind with Eminem, Rihanna, Taylor, Kanye and Bieber"]. 13/9/2010. Singersroom.com.</ref> Nhờ thành công của ''Recovery'' và Home & Home Tour, Eminem được MTV chọn là Hottest MC in the Game 2010<ref>Cantor, Paul (24/10/2010). [http://www.mtv.com/news/articles/1650705/20101024/eminem.jhtml "Eminem Is The Hottest MC In The Game!"]. MTV Networks.</ref> và Emcee của năm bởi tạp chí mạng HipHopDX.<ref>[http://www.hiphopdx.com/index/editorials/id.1633 The 2010 HipHopDX Year End Awards | Discussing Lil' Wayne, Drake & Many More Hip Hop Artists]. HipHopDX (13/12/2010).</ref> Anh và Rihanna sau đó hợp tác trong "[[Love the Way You Lie (Part II)]]", phân kế tiếp của đĩa đơn hit. Trong bản này, Rihanna là ca sĩ chính và hát bài hát từ góc nhìn của nhân vật nữ.<ref>[http://www.theboombox.com/2010/10/19/rihanna-eminem-love-the-way-you-lie-sequel "Rihanna and Eminem to make a Love the Way You Lie sequel"]. 19/10/2010. Theboombox.com</ref> Vào tháng 12 năm 2010, "Recovery" được ''Billboard'' xếp số một trong danh sách Top 25 Khoảnh khắc Âm nhạc 2010.<ref>[http://www.billboard.com/articles/news/948990/the-top-25-music-moments-of-2010 The Top 25 Music Moments of 2010] ''Billboard.com''. Truy cập 20/12/2010</ref> Anh cũng xuất hiện tại [[Giải Grammy 2011]] vào ngày 13 tháng 2 khi thể hiện "Love the Way You Lie (Part II)" cùng Rihanna và [[Adam Levine]] cũng như "[[I Need a Doctor]]" với Dr. Dre và [[Skylar Grey]].<ref>{{Chú thích web|họ 1=Semigran |tên 1=Aly |url= http://www.mtv.com/news/articles/1657911/skylar-gray-grammys.jhtml |tiêu đề=Skylar Grey Breaks Out With Dre, Eminem Grammy Performance – Music, Celebrity, Artist News |nhà xuất bản=MTV |ngày tháng=Februaryngày 14, tháng 2 năm 2011 |ngày truy cập=Februaryngày 21, tháng 2 năm 2011}}</ref> Cùng tháng đó "[[Space Bound]]" được thông báo là đĩa đơn thứ tư trong ''Recovery''.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Rodriguez |tên 1=Jayson |url=http://www.mtv.com/news/articles/1658323/eminem-sasha-grey-space-bound.jhtml |tiêu đề=Eminem Shoots 'Space Bound' Video With Porn Star Sasha Grey |nhà xuất bản=MTV |ngày tháng=Februaryngày 18, tháng 2 năm 2011 |ngày truy cập=Februaryngày 27, tháng 2 năm 2011}}</ref>
 
Vào năm 2010, Eminem tái hợp với [[Royce da 5'9"]] với tên [[Bad Meets Evil]] và hợp tác phát hành một [[EP]] mới. Họ từng hợp tác với tên này vào năm 1999. EP có tên ''[[Hell: The Sequel]]'' được phát hành tháng 6 năm 2011.<ref>[http://www.mtv.com/news/articles/1662592/eminem-royce-da-5-9-bad-meets-evil.jhtml Eminem And Royce Da 5'9" To Drop Bad Meets Evil EP] MTV.com (25/4/2011). Truy cập 26/4/2011.</ref> Eminem cũng góp mặt trong bài "[[Writer's Block (bài hát của Royce da 5'9")|Writer's Block]]" của Royce da 5'9", bài hát phát hành ngày 8 tháng 4 năm 2011.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rap-up.com/2011/04/08/new-music-royce-da-59-f-eminem-writers-block/ |tiêu đề=New Music: Royce Da 5'9" f/ Eminem – 'Writer's Block' |nhà xuất bản=Rap-Up.com |ngày truy cập=Junengày 14, tháng 6 năm 2011}}</ref> Vào ngày 3 tháng 5 họ phát hành đĩa đơn chủ đề của EP có tên "[[Fast Lane (bài hát của Bad Meets Evil)|Fast Lane]]", cùng một video âm nhạc.<ref>{{youtube|rJOsjP33nF4|'Fast Lane' by Bad Meets Evil (Official music video)}}</ref> Trước đó vào tháng 3, hai album ''The Eminem Show'' và ''The Marshall Mathers LP'' đạt được chứng nhận kim cương từ RIAA. Eminem là rapper đầu tiên có hai album chứng nhận kim cương.<ref>[http://www.rapbasement.com/eminem/042611-rapper-eminem-has-two-albums-get-diamond-status-details-here-click-now.html Eminem Has 2 Albums Go Diamond] RapBasement.com (26/4/2011).</ref> Bad Meets Evil phát hành đĩa đơn tiếp theo, "[[Lighters (bài hát)|Lighters]]" vào ngày 6 tháng 7 và ra mắt video vào tháng 8.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.allaccess.com/top40-mainstream/future-releases|tiêu đề=Top 40/M Future Releases|nhà xuất bản=All Access Music Group|url lưu trữ=https://www.webcitation.org/5ztubDCg2?url=http://www.allaccess.com/top40-mainstream/future-releases|ngày lưu trữ=Tháng 7 3, 2011|ngày truy cập=Septemberngày 25, tháng 9 năm 2011|dead-url=no" == DeadURL or "không}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://idolator.com/5983402/eminem-bruno-mars-lighters-video|tên 1=Becky|họ 1=Bain|tiêu đề=Eminem And Royce Da 5′9" Pair Up With Bruno Mars For "Lighters" Video|nhà xuất bản=Idolator|ngày tháng=Augustngày 22, tháng 8 năm 2011|ngày truy cập=Augustngày 22, tháng 8 năm 2011}}</ref> Vào ngày 6 tháng 8, Eminem biểu diễn một số bài hát trong sự nghiệp của anh tại [[Lollapalooza]] với các nghệ sĩ góp mặt trong mỗi bài hát đó.<ref>{{citechú newsthích báo|url=http://www.usatoday.com/life/music/news/2011-08-07-lollapalooza-2011-eminem_n.htm|first=Piet|last=Levy|title=Lollapalooza 2011: Eminem rules Day Two|work=USA Today|publisher=[[Gannett Company]]|date=Augustngày 7, tháng 8 năm 2011|accessdate=Augustngày 9, tháng 8 năm 2011}}</ref>
 
===2012–13: ''The Marshall Mathers LP 2''===
{{main|The Marshall Mathers LP 2}}
Eminem thông báo vào ngày 24 tháng 5 năm 2012 rằng anh đang trong quá trình thực hiện album mới,<ref>{{Chú thích web|url= http://www.aftermathmusic.com/blog/2012/05/24/eminem-is-working-on-a-new-album|tiêu đề=Eminem is working on a new album|website=Aftermath Music|ngày tháng=Mayngày 24, tháng 5 năm 2012|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20120527083336/http://www.aftermathmusic.com/blog/2012/05/24/eminem-is-working-on-a-new-album|ngày lưu trữ=2012-05-27|url hỏng=yes}}</ref> theo kế hoạch sẽ ra mắt vào năm sau.<ref name="www.hiphopdx.com">{{Chú thích web | tiêu đề = Eminem Announces Eighth Studio Album For 2013 | url = http://www.hiphopdx.com/index/news/id.21684/title.eminem-announces-eighth-studio-album-for-2013 | ngày truy cập = Octoberngày 29, tháng 10 năm 2012 }}</ref> Trong khi ngày phát hành và tên album chưa được ấn định, đây vẫn là một trong số các "album được mong chờ nhất 2013".<ref>{{Chú thích web|url=http://www.complex.com/music/2013/01/the-50-most-anticipated-albums-of-2013/eminem |tiêu đề=6. Eminem, TBA — The 50 Most Anticipated Albums of 2013 |nhà xuất bản=Complex |ngày truy cập=Februaryngày 2, tháng 2 năm 2013}}</ref>
 
Vào ngày 11 tháng 2 năm 2013, chủ tịch Shady Records và quản lý của Eminem là ông [[Paul Rosenberg (giám đốc âm nhạc)|Paul Rosenberg]] thông album thứ 8 của rapper này sẽ ra sau ngày [[Memorial Day]]. Rosenberg cho biết công ty "thực sự mong chờ phát hành album mới của Eminem vào năm 2013. Anh ấy đã làm album được một thời gian rồi".<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/music/news/eminems-next-album-coming-post-memorial-day-20130208 |tiêu đề=Eminem's Next Album Coming 'Post-Memorial Day' 2013 &#124; Music News |nhà xuất bản=Rolling Stone |ngày tháng=Februaryngày 8, tháng 2 năm 2013 |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014}}</ref> [[No I.D.]] được xác nhận là một trong những người sản xuất album này.<ref name="NoIDCollabo">{{Chú thích web|url=http://www.mtv.com/news/articles/1693542/eminem-no-id-next-album.jhtml |tiêu đề=Eminem To Hit The Studio With No I.D. - Music, Celebrity, Artist News |nhà xuất bản=MTV.com |ngày tháng=Septemberngày 10, tháng 9 năm 2012 |ngày truy cập=Februaryngày 10, tháng 2 năm 2013}}</ref>
 
Vào ngày 14 tháng 8 bài hát "[[Survival (bài hát của Eminem)|Survival]]" của Em hợp tác với Liz Rodrigues và được [[DJ Khalil]] sản xuất, xuất hiện trong video giới thiệu trò chơi điện tử ''[[Call of Duty: Ghosts]]''. Tại [[MTV Video Music Awards 2013]], album được thông báo sẽ mang tên ''The Marshall Mathers LP 2'' (nối tiếp ''The Marshall Mathers LP'') và dự kiến ra mắt ngày 5 tháng 11.<ref name="HUFF POST">{{Chú thích web|url=http://www.huffingtonpost.com/2013/08/25/mmlp2-eminem-new-album-_n_3814784.html?utm_hp_ref=entertainment|tiêu đề=Eminem's 'MMLP2' Album Announced At VMAs|ngày tháng=Augustngày 25, tháng 8 năm 2013|nhà xuất bản=huffingtonpost.com|ngày truy cập=Augustngày 26, tháng 8 năm 2013}}</ref>
 
[[FileTập tin:Eminem Lollapalooza 2014 Chicago.jpg|thumb|left|alt=Eminem onstate in T-shirt, shorts and baseball cap|Mathers tại [[Lollapalooza]] 2014 ở Chicago]]
Đĩa đơn chủ đạo "[[Berzerk (bài hát)|Berzerk]]", được phát hành ngày 25 tháng 8 và ra mắt ở vị chí thứ ba trên [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]]. Ba đĩa đơn khác gồm: "Survival,<ref>{{citechú newsthích báo |date=Octoberngày 22, tháng 10 năm 2013 |url=http://news.yahoo.com/call-duty-ghosts-launch-trailer-dogs-destruction-eminem-110913587.html |title='Call of Duty: Ghosts' launch trailer: dogs, destruction, Eminem |work=Relaxnews |publisher=[[Yahoo News]] |accessdate=Octoberngày 22, tháng 10 năm 2013 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20131022152108/http://news.yahoo.com/call-duty-ghosts-launch-trailer-dogs-destruction-eminem-110913587.html |archivedate=Tháng 10 22, 2013 }}</ref> "[[Rap God]]" và "[[The Monster (bài hát)|The Monster]]" (với Rihanna).
 
Album được phát hành ngày 5 tháng 11 bởi Aftermath Entertainment, Shady Records và Interscope Records. Phiên bản thường gồm 16 bài, còn bản đạc biệt có thêm một đĩa thứ hai với 5 bài khác. ''The Marshall Mathers LP 2'' là album thứ bảy của Eminem đứng đầu khi ra mắt trên ''Billboard'' 200, đồng thời sở hữu doanh số tuần đầu tiên lớn thứ hai trong năm 2013.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.huffingtonpost.com/2013/11/13/eminem-album-sales-mmlp2-no-1_n_4266408.html?utm_hp_ref=entertainment |tiêu đề=Eminem's Album Sales Impress As 'MMLP2' Hits No. 1 |nhà xuất bản=Huffingtonpost.com |ngày tháng=Novemberngày 13, tháng 11 năm 2013 |ngày truy cập=Novemberngày 21, tháng 11 năm 2013}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/5785903/eminems-marshall-mathers-lp-2-scores-second-biggest-debut-of-year |tiêu đề=Eminem's 'Marshall Mathers LP 2' Scores Second-Biggest Debut of Year |nhà xuất bản=Billboard |ngày tháng=Novemberngày 12, tháng 11 năm 2013 |ngày truy cập=Novemberngày 21, tháng 11 năm 2013}}</ref> Anh là nghệ sĩ tiếp theo sau [[The Beatles]] có bốn đĩa đơn trong top 20 của ''Billboard'' Hot 100.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.complex.com/music/2013/11/eminem-four-singles-in-billboard-hot-100-top-20 |tiêu đề=Eminem Four Singles in Billboard Hot 100 Top 20 |nhà xuất bản=Complex |ngày tháng=Novemberngày 8, tháng 11 năm 2013 |ngày truy cập=Novemberngày 21, tháng 11 năm 2013}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://indyhiphop.com/2325052/eminem-ties-the-beatles-billboard-record/ |tiêu đề=Eminem Ties Beatles Billboard Record &#124; Hot 96.3 |nhà xuất bản=Indyhiphop.com |ngày tháng=Novemberngày 11, tháng 11 năm 2013 |ngày truy cập=Novemberngày 21, tháng 11 năm 2013}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.fuse.tv/2013/11/eminem-beatles-4-top-20-hits |tiêu đề=Eminem Is First Lead Artist Since Beatles to Score 4 Top 20 Hits - News - Fuse |nhà xuất bản=Fuse.tv |ngày tháng=Novemberngày 8, tháng 11 năm 2013 |ngày truy cập=Novemberngày 21, tháng 11 năm 2013}}</ref>
 
Tại Vương quốc Anh ''The Marshall Mathers LP 2'' xuất phát ở vị trí đầu tiên trên [[UK Albums Chart]]. Với tư cách là nghệ sĩ Mỹ đầu tiên có bảy album quán quân tại Anh liên tiếp, anh cân bằng thành tích của The Beatles ở vị trí thứ hai bảng xếp hạng số album quán quân tại Anh liên tiếp.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.officialcharts.com/chart-news/eminem-scores-seventh-consecutive-uk-number-1-album-2599/ |tiêu đề=Eminem scores seventh consecutive UK Number 1 album |nhà xuất bản=Official Charts Company |ngày tháng= Novemberngày 11, tháng 11 năm 2013 |ngày truy cập=Novemberngày 13, tháng 11 năm 2013}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.nme.com/news/eminem/73744 |tiêu đề=Eminem bags seventh consecutive UK Number One Album |nhà xuất bản=''[[NME]]'' |ngày tháng=Novemberngày 10, tháng 11 năm 2013}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.entertainmentwise.com/news/132172/Eminem-Scores-Seventh-Consecutive-UK-Number-One-Album-With-The-Marshall-Mathers-LP-2|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20131113024725/http://www.entertainmentwise.com/news/132172/Eminem-Scores-Seventh-Consecutive-UK-Number-One-Album-With-The-Marshall-Mathers-LP-2|ngày lưu trữ=2013-11-13 |tiêu đề=Eminem Scores Seventh Consecutive UK Number One Album With 'The Marshall Mathers LP 2' |nhà xuất bản=EntertainmentWise.com |ngày tháng=Novemberngày 11, tháng 11 năm 2013}}</ref> Album giúp Eminem trở thành nghệ sĩ bán đĩa đắt khách nhất tại Canada.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/biz/articles/news/record-labels/5869529/canadas-digital-music-sales-rise-in-2013-unlike-the-us |tiêu đề=Canada’s Digital Music Sales Rise in 2013 Unlike the U.S.; Eminem, Robin Thicke Among Top Selling Artists |nhà xuất bản=Billboard |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014}}</ref>
 
Vào ngày 3 tháng 11, Eminem là người đầu tiên nhận giải Nghệ sĩ của năm của [[YouTube Music Awards]],<ref>{{Chú thích web|url=http://www.spin.com/articles/youtube-music-awards-winners-list-macklemore-ryan-lewis/|tiêu đề=YouTube Music Awards: A Charming Mess With Eminem, Macklemore, M.I.A., and More|tác giả 1=Chris Martins|ngày truy cập=Januaryngày 3, tháng 1 năm 2014}}</ref> giành giải Global Icon Award tại [[MTV EMA]] 2013.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.hiphopdx.com/index/news/id.26194/title.eminem-wins-global-icon-award-at-2013-mtv-ema-music-awards|tiêu đề=Eminem Wins "Global Icon" Award At 2013 MTV EMA Music Awards|tác giả 1=Soren Baker|ngày truy cập=Januaryngày 3, tháng 1 năm 2014}}</ref> Tại lễ trao [[giải Grammy lần thứ 57]], anh nhận giải [[Giải Grammy cho Album Rap xuất sắc nhất|Album Rap xuất sắc nhất]] cho ''[[The Marshall Mathers LP 2]]'' và [[Giải Grammy cho Trình diễn rap/hát xuất sắc nhất|Trình diễn rap/hát hay nhất]] (với [[Rihanna]]) cho "[[The Monster (bài hát)|The Monster]]".<ref>{{Chú thích web|url=https://www.latimes.com/entertainment/music/posts/la-et-ms-grammys-2015-wins-rap-album-20150205-story.html|tựa đề=Grammys 2015: Eminem takes best rap album honors|tác giả=|họ=|tên=|ngày=08-02-2020|website=The Los Angeles Times|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref>
 
===2014–2016: ''Shady XV'' và ''Southpaw''===
[[FileTập tin:Eminem live at D.C. 2014.jpg|thumb|Eminem biểu diễn tại Concert for Valor ở Washington, D.C. năm 2014]]
Vào mùa hè năm 2014, Eminem và Rosenberg bắt đầu sử dụng hashtag #SHADYXV trên các trang mạng xã hội và Eminem mặc một chiếc áo phông với [[hashtag]] này trên sân khấu. Hashtag này sau đó được tiết lộ là tên của một album sắp tới. Ngay sau đó đĩa đơn đầu tiên của album ("Guts Over Fear", với ca sĩ kiêm nhạc sĩ [[Sia Furler]]) và danh sách bài hát của album cùng phát hành vào ngày 29 tháng 10. Shady Records đã phát hành một [[Freestyle rap|cypher]] quảng bản cho album, trong đó Eminem đã thực hiện một bản rap tự do dài bảy phút. "Detroit vs. Everybody" (đĩa đơn thứ hai của album), với Eminem, Dej Loaf, Royce da 5'9 ", Danny Brown, Big Sean và Trick-Trick, được phát hành vào ngày 11 tháng 11 ''[[Shady XV]]'', phát hành vào Ngày 24 tháng 11 trong tuần [[Thứ Sáu Đen]], Album ra mắt ở vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng [[Billboard 200]], với doanh số tuần đầu tiên là 138.000 bản tại [[Hoa Kỳ]].
 
The Official Eminem Box Set, một box-set bao gồm 10 sản phẩm âm nhạc kéo dài xuyên suốt sự nghiệp, được phát hành vào ngày 12 tháng 3 năm 2015, bao gồm bảy trong số tám [[album phòng thu]] của Eminem (không tính ''[[Infinite (album của Eminem)|Infinite]]''), nhạc phim ''[[8 Mile]]'', đĩa tổng hợp Eminem Presents: The Re-Up và Curtain Call: The Hits.
 
Eminem là nhà sản xuất nhạc phim của bộ phim thể thao ''[[Southpaw]]''. Đĩa đơn đầu tiên của nhạc phim mang tên 'Phenomenal' được phát hành vào ngày 2 tháng 6 năm 2015. Một đĩa đơn khác "Kings Never Die" của Eminem với [[Gwen Stefani]], được phát hành vào ngày 10 tháng 7 năm 2015 trên [[YouTube]]. Eminem là nhân vật được phỏng vấn đầu tiên của [[Zane Lowe]] trong Beats 1. Cuộc phỏng vấn được truyền hình trực tiếp trên đài phát thanh Beats 1 vào ngày 1 tháng 7 năm 2015.
Dòng 197:
 
===Shady Records===
Sau thành công của Eminem, Interscope đề nghị với Eminem về việc thành lập hãng đĩa riêng của anh; Anh và Paul Rosenberg thành lập Shady Records vào cuối năm 1999. Eminem ký hợp đồng với D12, cùng rapper [[Obie Trice]] và ký tiếp với [[50 Cent]] trong một dự án liên doanh với hãng Aftermath của Dr. Dre năm 2002. Vào năm 2003, Eminem và Dr. Dre kết nạp rapper người [[Atlanta]] là [[Stat Quo]] vào hàng ngũ Shady-Aftermath. [[DJ Green Lantern]], DJ cũ của Eminem gia nhập Shady Records đến khi tranh cãi liên quan tới sự bất hòa giữa 50 Cent và [[Jadakiss]] buộc anh phải ra đi. Vào năm 2005 Eminem ký hợp đồng với một rapper Atlanta nữa, Bobby Creekwater, rapper tới từ Bờ Tây, [[Cashis]].<ref name="Britannica">{{Chú thích web|ngày truy cập=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url=http://www.britannica.com/eb/article-9438449/Eminem|tiêu đề=Eminem |nhà xuất bản=[[Encyclopædia Britannica]]}}</ref>
 
Ngày 5 tháng 12 năm 2006, album tổng hợp ''[[Eminem Presents: The Re-Up]]'' được phát hành dưới tên Shady Records. Dự án bắt đầu dưới dạng [[mixtape]], nhưng khi Eminem tìm thấy chất liệu nhạc tốt hơn dự kiến thì anh đổi ý sang ra album. ''The Re-Up'' được dành cho việc giới thiệu Stat Quo, Cashis và Bobby Creekwater.<ref>{{Chú thích web|ngày truy cập=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url=http://stores.musictoday.com/store/dept.asp?band_id=82&dept_id=1305&sfid=2|url lưu trữ= https://web.archive.org/web/20080411222742/http://stores.musictoday.com/store/dept.asp?band_id=82&dept_id=1305&sfid=2|ngày lưu trữ=Aprilngày 11, tháng 4 năm 2008| tiêu đề = Re-Up CD|nhà xuất bản=Encore}}</ref>
 
===D12===
Khi còn đang thu âm ''Infinite'', Eminem, Proof và Kon Artis lập thành một nhóm rapper mà giờ được biết tới với tên D12, viết tắt cho "Detroit Twelve" hay "Dirty Dozen", những người biểu diễn theo phong cách giống [[Wu-Tang Clan]].<ref>{{harvnb|Bozza|2003|p=19}}</ref> Vào năm 2001 album đầu tay của D12, ''[[Devil's Night (album)|Devil's Night]]'', được phát hành.<ref name="d12 all music">{{Chú thích web|họ 1=Smith|tên 1=Kerry|tiêu đề=D12 > Biography|url={{Allmusic|class=artist|id=p457773|pure_url=yes}}|nhà xuất bản=Allmusic| ngày tháng=May 2006 |ngày truy cập=Mayngày 23, tháng 5 năm 2008}}</ref> Đĩa đơn đầu tiên từ album là "[[Shit on You]]", kế đến là "[[Purple Pills]]" (bài hát về việc dùng ma túy để giải khuây) và "[[Fight Music]]". "Purple Pills" sau đó phải viết lại lời khi phát trên radio và TV, loại bỏ tất cả những câu từ về ma túy và tình dục, và đổi tên là "Purple Hills".
 
Sau đó, D12 không hoạt động phòng thu trong ba năm. Họ tái hợp năm 2004 với album ''[[D12 World]]'', với các đĩa đơn hit "[[My Band]]" và "[[How Come]]". "American Pshyco 2" với sự góp mặt của [[B-Real]], thành viên ban nhạc [[Cypress Hill]], cũng khá nổi tiếng.<ref name="d12 all music"/> Theo như lời của [[Bizarre (rapper)|Bizarre]], một thành viên trong D12, Eminem không có mặt trong album ''[[Blue Cheese & Coney Island]]'' bởi "anh đang bận làm việc riêng".<ref>{{Chú thích web |ngày truy cập=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008 |url=http://www.xxlmag.com/online/?p=15387 |tiêu đề=Bizarre: Split Personality |work=[[XXL (magazine)|XXL]] |url hỏng=yes |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20071227204054/http://www.xxlmag.com/online/?p=15387 |ngày lưu trữ=Tháng 12 27, 2007 }}</ref>
 
===Sự nghiệp diễn xuất===
Sau một vai nhỏ trong ''[[The Wash (phim 2001)|The Wash]]'' (2001), Eminem ra mắt Hollywood trong bộ phim nửa tự truyện ''[[8 Mile (phim)|8 Mile]]'' (2002). Theo lời của rapper này, phim nói về việc trưởng thành ở Detroit chứ không phải phái để thuật lại cuộc đời của anh. Anh thu một số ca khúc mới cho album nhạc phim trong đó có "[[Lose Yourself]]" (bài hát giành giải [[Giải Oscar cho bài hát gốc hay nhất]] năm 2003 và là đĩa đơn hip hop quán quân liên tiếp lâu nhất trong lịch sử).<ref>{{Chú thích web|url=http://www.lefalaja.com/worldrecords1.html |tiêu đề=Lefalaja.com |nhà xuất bản=Lefalaja.com |ngày truy cập=Mayngày 24, tháng 5 năm 2010|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20100829012226/http://www.lefalaja.com/worldrecords1.html|ngày lưu trữ=2010-08-29}}</ref> Eminem không có mặt tại lễ trao giải, người nhận thay là [[Luis Resto (nhạc sĩ)|Luis Resto]].<ref>{{citechú newsthích báo|accessdate=Augustngày 8, tháng 8 năm 2008|url=http://www.people.com/people/article/0,,625790,00.html|last=Elson|first=Rachel F.|title=Eminem Naps Through His Oscar Victory |work=[[People (tạp chí)|People]]}}</ref>
 
Anh còn lồng tiếng cho trò chơi video ''[[50 Cent: Bulletproof]]'' (trong vai một nhân viên cảnh sát già bị mua chuộc nói giọng Mỹ gốc Phi) và là khách mời trong show truyền hình của hãng [[Comedy Central]] có tên ''[[Crank Yankers]]'' và một bộ phim hoạt hình mạng, ''The Slim Shady Show''.<ref>{{Chú thích web|ngày truy cập=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url=http://www.xboxsolution.com/2005/05/19/vu-games-eminem-and-dr-dre-debut-50-cent-bulletproof/|tiêu đề=VU Games, Eminem, and Dr. Dre debut 50 Cent: Bulletproof |nhà xuất bản=Xbox Solution|url lưu trữ = https://web.archive.org/web/20070115014559/http://www.xboxsolution.com/2005/05/19/vu-games-eminem-and-dr-dre-debut-50-cent-bulletproof/ |ngày lưu trữ = Januaryngày 15, tháng 1 năm 2007|url hỏng=yes}}</ref> Anh được ký hợp đồng để vào vai chính trong phiên bản điện ảnh chưa từng được bấm máy của series truyền hình ''[[Have Gun – Will Travel]]'',<ref>{{Chú thích web|ngày truy cập=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url=http://news.usti.net/home/news/cn/?/living.tv/1/wed/bd/Uus-eminem.R_Ti_GuD.html|tiêu đề=Eminem To Star In 'Have Gun, Will Travel'|nhà xuất bản=ustinet news|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20070927011545/http://news.usti.net/home/news/cn/?%2Fliving.tv%2F1%2Fwed%2Fbd%2FUus-eminem.R_Ti_GuD.html|ngày lưu trữ=2007-09-27|dead-url=yes}}</ref> và được xem xét cho vai David Rice của phim ''[[Jumper (phim 2008)|Jumper]]'' (2008).<ref>{{Chú thích web|ngày truy cập=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url= http://www.mtv.com/movies/news/articles/1581622/story.jhtml|tiêu đề=Eminem Almost Had Hayden Christensen's Role In 'Jumper'|nhà xuất bản=MTV News}}</ref> Eminem có vai khách mời trong đoạn cãi nhau với [[Ray Romano]], trong bộ phim ''[[Funny People]]'' (2009).
 
Anh vào vai chính mình trong tập cuối mùa bảy của ''[[Entourage (phim truyền hình)|Entourage]]'' có tên "[[Lose Yourself (Entourage)|Lose Yourself]]" cùng Christina Aguilera.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.tvguide.com/News/Eminem-Aguilera-Entourage-1020000.aspx|tiêu đề=Eminem, Aguilera to Appear on Entourage Season Finale|nhà xuất bản=TVGuide.com|ngày tháng=Junengày 29, tháng 6 năm 2010|ngày truy cập=Junengày 30, tháng 6 năm 2010}}</ref> Mặc dù được trao vai chính trong phim khoa học viễn tưởng ''[[Elysium (phim)|Elysium]]'' (2013), anh từ chối vì lý do đạo diễn [[Neill Blomkamp]] không thay đổi địa điểm từ [[Los Angeles]] sang Detroit.<ref>{{Chú thích web|tác giả 1=Sean Michaels |url=http://www.guardian.co.uk/music/2013/jul/18/eminem-di-antwoord-ninja-elysium |tiêu đề=Eminem and Die Antwoord's Ninja both turned down lead in sci-fi film &#124; Music |nhà xuất bản=theguardian.com |ngày tháng=Julyngày 18, tháng 7 năm 2013 |ngày truy cập=Augustngày 25, tháng 8 năm 2013}}</ref> Anh đóng vai khách mời trong bộ phim hài ''[[The Interview (phim 2014)|The Interview]]'' vào năm 2014; trong đoạn phỏng vấn với nhân vật chính Dave Skylark ([[James Franco]] thủ vai), Eminem [[come out|công khai thừa nhận]] mình đồng tính.<ref name="The Interview cameo">{{citechú newsthích báo|first=Meghan|last=Keneally|title='The Interview': Best Scenes From the Movie That Won't Be in Theaters|url=http://abcnews.go.com/Entertainment/interview-best-scenes-movie-theaters/story?id=27697733|publisher=ABC News|date=Decemberngày 18, tháng 12 năm 2014|accessdate=Januaryngày 20, tháng 1 năm 2015}}</ref>
 
===Sách===
Dòng 217:
 
===Quảng cáo và từ thiện===
Eminem góp mặt trong hai đoạn quảng cáo chiếu trong trận tranh [[Super Bowl XLV]]. Trong đoạn quảng cáo đầu tiên dài một phút cho nhãn hiệu trà đá Brisk của hãng [[Lipton]], anh xuất hiện trong hình dạng một nhân vật [[hoạt hình đất sét]].<ref>{{citechú newsthích báo|title=Eminem to Star in Super Bowl Claymation Ad: Report|url=http://www.billboard.com/articles/news/473323/eminem-to-star-in-super-bowl-claymation-ad-report|date=Januaryngày 31, tháng 1 năm 2011|work=Billboard |author=Monica Herrera}}</ref> Trong đoạn quảng cáo thứ hai dài hai phút – dài nhất trong lịch sử Super Bowl vào thời điểm đó – cho nhãn hiệu xe [[Chrysler 200]], Eminem lái xe (với "Lose Yourself" là nhạc nền) tới buổi diễn của mình tại [[Nhà hát Fox (Detroit, Michigan)|Nhà hát Fox]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.mtv.com/news/articles/1657401/eminem-chrysler-super-bowl-commercial.jhtml |tiêu đề=Eminem Praised For Chrysler Super Bowl Commercial |tên 1=Gil |họ 1=Kaufmann |nhà xuất bản=MTV |ngày tháng=Februaryngày 7, tháng 2 năm 2011 |ngày truy cập=Februaryngày 7, tháng 2 năm 2011}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=http://thecelebritycafe.com/feature/eminem-s-chrysler-commercial-hailed-one-top-super-bowl-ads-2011-02-07-2011 |tiêu đề=Eminem's Chrysler Commercial Hailed as One of Top Super Bowl Ads of 2011 |work=TheCelebrityCafe.com |ngày tháng=Februaryngày 7, tháng 2 năm 2011 |ngày truy cập=Februaryngày 7, tháng 2 năm 2011 |url hỏng=yes |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20110210064039/http://thecelebritycafe.com/feature/eminem-s-chrysler-commercial-hailed-one-top-super-bowl-ads-2011-02-07-2011 |ngày lưu trữ=Tháng 2 10, 2011 }}</ref>
 
Anh thành lập Marshall Mathers Foundation để giúp các thanh niên bị thiệt thòi. Cơ sở này liên kết với một tổ chức từ thiện do Norman Yatooma, một luật sư ở Detroit, khởi xướng.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.looktothestars.org/charity/268-marshall-mathers-foundation|tiêu đề=Marshall Mathers Foundation: Celebrity Supporters}}</ref>
Dòng 224:
 
===Ảnh hưởng và kĩ thuật rap===
Eminem từng nhắc tới một số rapper ảnh hưởng lên cách [[rap]] của anh, trong đó có [[Esham]],<ref>{{citechú bookthích sách |last1=Hess |first1=Mickey |title=Hip Hop in America: A Regional Guide: Volume 1: East Coast and West Coast |year=2009 |publisher=ABC-CLIO |isbn=0-313-34323-3 |pages=411–413 |chapter=Esham }}</ref> [[Kool G Rap]],<ref name=Edwards88>Edwards, 2009, tr. 88.</ref> [[Masta Ace]], [[Big Daddy Kane]],<ref name=Edwards88/> [[Newcleus]], [[Ice-T]], [[Mantronix]], [[Melle Mel]] (với bài "[[The Message (bài hát của Grandmaster Flash and the Furious Five)|The Message]]"), [[LL Cool J]], [[Beastie Boys]], [[Run–D.M.C.]], [[Rakim]] và [[Boogie Down Productions]].<ref name="Eminem 2008, tr. 20">{{citechú thích booksách|author1=Eminem |first2=Sacha |last2=Jenkins |year=2008 |title=The Way I Am |publisher=[[Dutton Adult]] |page=20}}</ref>
 
Trong ''[[How to Rap]]'', [[Guerilla Black]] nói rằng Eminem học tập các MC để trau đồi kĩ thuật rap: "Eminem nghe mọi thứ và đó là điều khiến anh ấy vĩ đại".<ref>Edwards, 2009, tr. x.</ref> Trong cuốn sách này, các MC khác cũng khen ngợi các khía cạnh trong phong cách của anh; chủ đề đa dạng, hài hước,<ref>Edwards, 2009, tr. 5, 38.</ref> kết nối với người nghe,<ref>Edwards, 2009, tr. 7.</ref> giữ một hình thức chung cho chuỗi các album,<ref>Edwards, 2009, tr. 34.</ref> phối hợp vần phức tạp,<ref>Edwards, 2009, tr. 66, 107.</ref> uốn câu từ sao cho có [[vần]],<ref>Edwards, 2009, tr. 85.</ref> [[vần đa âm tiết]],<ref name=Edwards88/> nhiều vần một vạch nhịp,<ref>Edwards, 2009, tr. 106.</ref> nhịp điệu phức tạp,<ref>Edwards, 2009, tr. 120, 129.</ref> cách trần thuật rõ ràng<ref>Edwards, 2009, tr. 244.</ref> cùng với việc sử dụng [[giai điệu]]<ref>Edwards, 2009, tr. 253.</ref> và cách nhấn lệch.<ref>Edwards, 2009, tr. 257.</ref> Eminem được biết tới vì viết hầu hết lời bài hát ra giấy (được ghi chép trong ''The Way I Am''), dành ra nhiều ngày hay cả tuần để để tạo lời,<ref>Edwards, 2009, tr. 160.</ref> là một "[[kẻ nghiện công việc]]".<ref>Edwards, 2009, tr. 212.</ref>
 
===Thân thế khác===
Eminem sử dụng các thân thế khác (''alter ego'') trong các bài hát đối với các phong cách và chủ đề rap khác nhau. Thân thế nổi tiếng nhất là Slim Shady, lần đầu xuất hiện trong EP ''Slim Shady''. Những bài hát trong thân thế này thường mạnh bạo và u ám, cùng một nét hài hước.<ref>{{citechú newsthích báo| accessdate=Marchngày 7, tháng 3 năm 2011|url=http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,1002562,00.html|title=The Three Faces of Eminem|work=TIME |first=Josh|last=Tyrangiel|date=Junengày 3, tháng 6 năm 2002}}</ref> Eminem bỏ hình tượng Slim Shady trong ''Recovery'' vì anh cho rằng nó không hợp với dòng chảy của album.<ref>{{Chú thích web|ngày truy cập=Marchngày 7, tháng 3 năm 2011|url=http://www.mtv.com/news/articles/1641819/eminem-slim-shady-wasnt-right-recovery.jhtml|tiêu đề=Eminem Says 'Slim Shady' Wasn't Right for Recovery|nhà xuất bản=MTV News}}</ref> Một nhân vật nữa là Ken Kaniff, một người đồng tính hay chế giễu bài hát của Eminem. Ken được sáng tạo và thể hiện bởi rapper đồng hương Detroit, Aristotle, trong ''Slim Shady LP'', trong đó Kaniff gọi điện chơi khăm Eminem. Một cuộc tranh cãi sau khi album ra mắt dẫn tới việc Eminem sử dụng nhân vật Kaniff trong ''Marshall Mathers'' và các album sau này (ngoại trừ ''Encore'' và ''Recovery'').
 
==Đời tư==
 
===Gia đình===
Eminem hai lần kết hôn với [[Kimberly Anne "Kim" Scott]]. Anh gặp Kim ở [[trường trung học]], người kém mình hai tuổi; anh khi đó 15 tuổi, cởi trần đứng trên một chiếc bàn và rap "[[I'm Bad]]" của [[LL Cool J]].<ref>[http://www.complex.com/music/2013/02/50-things-you-didnt-know-about-eminem/meeting-kim 50 Things You Didn't Know About Eminem | Complex]</ref> Kim và người chị em song sinh, Dawn, bỏ nhà ra đi; họ chuyển tới sống ở nhà Eminem và mẹ của anh năm anh 15 tuổi. Anh và Kim bắt đầu mối quan hệ tình cảm năm 1989. Con gái họ, Hailie, sinh ngày 25 tháng 12 năm 1995; họ làm đám cưới năm 1999, li dị lần đầu năm 2001. Mặc dù Eminem kể với ''[[Rolling Stone]]'' năm 2002: "Tôi thà sinh con bằng [[dương vật]] còn hơn là tái hôn", không lâu sau anh và Kim tái hôn vào tháng 1 năm 2006. Anh nộp đơn li dị vào đầu tháng 4,<ref>{{Chú thích web|họ 1=Robertson|tên 1=Jessica|tiêu đề=Eminem to Divorce Kim, Again|url= http://www.rollingstone.com/music/news/eminem-to-divorce-kim-again-20060405|work=Rolling Stone|nhà xuất bản=Wenner|ngày truy cập=Aprilngày 7, tháng 4 năm 2014|ngày tháng=Aprilngày 5, tháng 4 năm 2006}}</ref> đồng ý chia sẻ quyền nuôi Hailie.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Eames|tên 1=Tom|tiêu đề=Eminem's daughter Hailie is named Homecoming Queen|url= http://www.digitalspy.co.uk/showbiz/news/a521990/eminems-daughter-hailie-is-named-homecoming-queen.html|work=[[Digital Spy]]|nhà xuất bản=Hearst Corpordivorce|ngày truy cập=Aprilngày 7, tháng 4 năm 2014|ngày tháng=Octoberngày 8, tháng 10 năm 2013}}</ref> Anh còn nhận nuôi Alaina, con gái của Dawn và Whitney, con gái mà Kim có với một người khác.<ref>{{Chú thích web|url= http://www.dailymail.co.uk/tvshowbiz/article-2511755/Eminem-ex-wife-Kim-Scott-rekindle-romance--seven-years-SECOND-divorce.html|tiêu đề= Guess Who's Back (together): Eminem and ex-wife Kim Scott rekindle their romance... seven years after SECOND divorce|tác giả 1= Hugo Daniel, Felicity Thistlethwaite|work= [[Daily Mail]]|ngày tháng= Novemberngày 23, tháng 11 năm 2013|ngày truy cập= Augustngày 8, tháng 8 năm 2015}}</ref><ref>{{Chú thích web|url= http://m.usmagazine.com/celebrity-news/news/eminem-kim-mathers-have-great-relationship-as-parents-not-reconciled-20132111|tiêu đề= Eminem, Kim Mathers Have "Great Relationship" as Parents; Not Reconciled|tác giả 1= Esther Lee|work= Us Weekly|nhà xuất bản= Wenner Media LLC|ngày tháng= Novemberngày 22, tháng 11 năm 2013|ngày truy cập = Augustngày 8, tháng 8 năm 2015}}</ref> Đầu năm 2010, Eminem phủ nhận tin anh và Kim đã làm hòa.<ref>{{Chú thích web|url= http://www.nationalledger.com/artman/publish/article_272630307.shtml|tiêu đề=Eminem & Wife Reunion Denied|work=National Ledger|ngày tháng=Februaryngày 8, tháng 2 năm 2010| ngày truy cập=February 10, 2010}}</ref> Anh cũng có quyền giám hộ hợp pháp với em trai cùng mẹ khác cha, Nathan, người cũng làm rapper với nghệ danh "Nate Kane".<ref>{{Chú thích web|url=http://www.ibtimes.com/eminem-apologizes-mother-debbie-mathers-headlights-audio-1448846 |tiêu đề=Eminem Apologizes To Mother Debbie Mathers In 'Headlights'|họ 1=Vultaggio |tên 1=Maria |work=International Business Times |nhà xuất bản=IBT Media |ngày truy cập=Aprilngày 7, tháng 4 năm 2014 |ngày tháng=October 30, 2013}}</ref><ref>{{Chú thích web|url= http://www.mlive.com/entertainment/detroit/index.ssf/2010/02/eminems_brother_nate_nate_kane.html | tiêu đề= Eminem's brother Nate 'Nate Kane' Mathers to drop new album, perform at Majestic Theatre|tác giả 1= Jessica Nunez|work= Mlive.com|nhà xuất bản= [[Advance Publications]]|ngày tháng= February 16, 2010|ngày truy cập= February 2, 2016}}</ref> Trong bài hát "[[Headlights (bài hát của Eminem)|Headlights]]" vào năm 2014, Eminem đưa ra lời xin lỗi đồng thời khẳng định lại tình yêu dành cho mẹ của anh.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.rollingstone.com/music/news/eminem-finally-apologizes-to-mom-on-headlights-20131031 |tiêu đề=Eminem Finally Apologizes to Mom on 'Headlights' |nhà xuất bản=Rolling Stones |ngày tháng=October 13, 2013 |ngày truy cập=November 5, 2013}}</ref>
 
===Rắc rối pháp lý===
Vào năm 1999, mẹ của Eminem đòi anh gần 10&nbsp;triệu đô la vì xúc phạm bà trong ''[[The Slim Shady LP]]'', nhưng chỉ nhận được khoảng 1 nghìn 600 đô la tiền bồi thường thiệt hại vào năm 2001.<ref>{{harvnb|Bozza|2003|p=69}}</ref> Eminem bị bắt giữ ngày 3 tháng 6 năm 2000 trong một cuộc ẩu đả với Douglas Dail tại một cửa hàng thiết bị âm thanh xe hơi tại [[Royal Oak, Michigan]], khi anh rút ra một khẩu [[súng]] chưa nạp đạn và chĩa súng xuống đất. Một ngày sau, tại [[Warren, Michigan]], anh bị bắt tiếp vì hành hung bảo vệ quán bar John Guerrera ở khu đỗ xe của quán Hot Rock Café sau khi nhìn thấy Guerrera hôn vợ mình.<ref name="AOZ">{{Chú thích web|ngày truy cập=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url=http://www.the411online.com/news18.html|tiêu đề=Tour tickets available for a price |nhà xuất bản=The 411 Online}}</ref><ref name="personal life"/> Eminem tái hiện lại việc tấn công Guerrera trong "The Kiss (Skit)" trong album ''The Eminem Show''. Eminem, bị buộc tội mang vũ khí giấu kín và hành hung, nhận tội và chịu hai năm [[quản chế]]; vụ hành hung Guerrera được bỏ nhờ dàn xếp giảm nhẹ tội.<ref>{{Chú thích web|ngày truy cập=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008|url=http://www.mtv.com/news/articles/1442656/20010410/eminem.jhtml|tiêu đề=Eminem Gets Two Years' Probation In Weapon Case|nhà xuất bản=MTV}}</ref> Vào ngày 7 tháng 7 năm 2000 Kim có ý định tự sát khi rạch cổ tay,<ref>{{citechú newsthích báo|url=http://news.bbc.co.uk/1/hi/entertainment/827159.stm |title=Eminem wife's suicide bid|publisher=BBC News |date=July 10, 2000 |accessdate=Junengày 14, tháng 6 năm 2011}}</ref> và sau đó kiện Eminem vì làm nhục cô sau khi anh tưởng tượng ra một cái chết thảm khốc của cô trong "[[Kim (bài hát)|Kim]]".<ref name="personal life">{{citechú newsthích báo|url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/entertainment/4882092.stm |title=Entertainment &#124; Eminem and Kim to divorce again |publisher=BBC News |date=April 6, 2006 |accessdate=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014}}</ref>
 
Vào ngày 26 tháng 10 năm 2000, khi Eminem chuẩn bị biểu diễn tại [[Rogers Centre|Skydome]] ở [[Toronto]] thì trưởng tư pháp tỉnh [[Ontario]] [[Jim Flaherty]] nói rằng Eminem sẽ không được phép nhập cảnh vào [[Canada]]. Ông nói "cá nhân tôi không muốn những ai tới Canada mà lại ủng hộ bạo hành phụ nữ". Phản ứng của công chúng đối với Flaherty nhìn chung là tiêu cực vì ngăn không cho Eminem vào Canada được coi là liên quan tới vấn đề [[tự do ngôn luận]], nghị sĩ đảng [[Đảng Tự do Canada|Tự do]] tỉnh Ontario Michael Bryant cho rằng rapper này phải bị khởi tố vì tội thù ghét, cụ thể là ủng hộ bạo hành phụ nữ trong lời bài hát của anh ta.<ref name = "B">{{citechú newsthích báo|title = Ontario wants rap star banned|first = Richard|last = Mackie|author2 = Marissa Nelson|newspaper=Globe and Mail |location = Toronto|date = October 26, 2000|pages = A1, A4|accessdate =May 27, 2009}}</ref> Robert Everett-Green viết trong bài xã luận cho tờ ''[[The Globe and Mail]]'', "Chướng tai gai mắt là từ để mô tả công việc của Eminem",<ref name = "A">{{citechú newsthích báo|title = Bad rap for a rapper|first = Robert|last = Everett-Green|type = newspaper|work=Globe and Mail |location = Toronto|date = October 26, 2000|page = A25|accessdate =May 27, 2009}}</ref> trong khi buổi biểu diễn của rapper này tại Toronto vẫn diễn ra bình thường.<ref name = "D">{{citechú newsthích báo | title = Eminem to play despite Canadian officials concerns|first = Jon|last = Zahlaway |work=LiveDaily|date = October 26, 2000|url=http://www.livedaily.com/news/2069.html|accessdate =May 27, 2009|archiveurl= https://web.archive.org/web/20001202041600/http://livedaily.com/news/2069.html|archivedate =2000- ngày 2 tháng 12-02 năm 2000}}</ref>
 
Nhân viên vệ sinh DeAngelo Bailey đòi Eminem 1 triệu đô vào năm 2001, buộc tội anh vì xâm phạm quyền riêng tư khi đã đăng thông tin sai về anh ta trong bài "Brain Damage", bài hát miêu tả Bailey là kẻ đầu gấu trường. Dù Bailey thừa nhận đôi xử không phải với Eminem ở trường, anh nói mình chỉ "đụng chạm" và "đẩy nhẹ" cậu ta. Vụ kiện bị bác bỏ vào ngày 20 tháng 10 năm 2003; thẩm phán [[Deborah Servitto]], người đọc rap phần phán quyết, khẳng định rằng lời rap chỉ đơn thuần là phóng đại lên.<ref>{{citechú newsthích báo|last1=Dansby|first1=Andrew|title=Judge Drops Eminem Rap|url=http://www.rollingstone.com/music/news/judge-drops-eminem-rap-20031020|accessdate=August 12, 2015|work=Rolling Stone|date=October 20, 2003}}</ref>
 
Ngày 28 tháng 6 năm 2001, Eminem bị kết án một năm quản chế và lao động công ích đồng thời bị phạt gần 2.000 đô la vì cáo buộc về việc sử dụng vũ khí xuất phát từ cuộc tranh cãi với nhân viên của [[Psychopathic Records]].<ref>{{citechú newsthích báo|last=van Horn|first=Teri|title=Eminem Gets Probation|url= http://www.mtv.com/news/articles/1444843/20010628/eminem.jhtml|publisher=[[MTV News]]|date=June 28, 2001|accessdate=Januaryngày 30, tháng 1 năm 2008}}</ref>
 
Ngày 31 tháng 3 năm 2002, Nhạc công piano [[jazz]] [[Jacques Loussier]] đâm đơn kiện đòi 10&nbsp;triệu đô từ Eminem và Dr. Dre, khi cho rằng nhíp điệu trong bài "Kill You" là từ nhạc phẩm "Pulsion" của ông.<ref>{{citechú newsthích báo |url=http://news.bbc.co.uk/1/hi/entertainment/music/1904507.stm|title=Eminem sued by jazz star |accessdate=December 24, 2008 |publisher=BBC News |date=March 31, 2002}}</ref> Loussier yêu cầu dừng việc bán ''[[The Marshall Mathers LP]]'' và bất kì bản copy nào còn bày bán phải bị tiêu hủy. Một phiên tòa được dự kiến bắt đầu vào tháng 6 năm 2004, và vụ việc được giải quyết sau đó.<ref>{{citechú newsthích báo | first = Robin | last = Finn | title = A Defender of the Controversial, and Now of Imus | date = May 25, 2007 | work=New York Times | accessdate =May 25, 2010}}</ref>
 
Vào ngày 8 tháng 12 năm 2003, [[Cơ quan Mật vụ Hoa Kỳ]] thông báo họ đang "xem xét" các cáo buộc Eminem đã đe dọa [[Tổng thống Hoa Kỳ]].<ref>{{citechú newsthích báo| title=Secret Service checks Eminem's 'dead president' lyrics|url= http://edition.cnn.com/2003/SHOWBIZ/Music/12/05/eminem.lyrics/|publisher=CNN|date=December 6, 2003|accessdate=Februaryngày 1, tháng 2 năm 2008}}</ref> Nguyên nhân là từ lời bài hát "We As Americans" ("Fuck money / I don't rap for [[Dead Presidents (bài hát)|dead presidents]] / I'd rather see the president dead / It's never been said, but I set precedents"). Vụ việc sau đó được chiếu trong video bài hát "[[Mosh (bài hát)|Mosh]]", với hình ảnh một mẩu báo cắt ra được gắn trên bức tường đầy các bài báo về nhưng điều không may trong sự nghiệp chính trị của [[George W. Bush|Bush]]. Bài hát sau đó được phát hành trong [[CD]] với bản deluxe của ''Encore'' với lời được thay đổi đi.<ref name="encore amg">{{Chú thích web|họ 1=Erlewine|tên 1= Stephen Thomas|lk tác giả 1=Stephen Thomas Erlewine|tiêu đề="Encore" – Overview |url={{Allmusic|class=album|id=r717546|pure_url= yes}} |nhà xuất bản=Allmusic |năm=2004 |ngày truy cập=September 17, 2007}}</ref>
 
Năm 2007 công ty phát hành nhạc của Eminem (Eight Mile Style) và Martin Affiliated kiện [[Apple Inc.]] và Aftermath Entertainment, khẳng định rằng Aftermath chưa được trao quyền đàm phán hợp đồng tải nhạc số với [[Apple]] đối với 93 bài hát của Eminem trên [[iTunes]].<ref name="apple2">{{Chú thích web|url=http://www.crainsdetroit.com/article/20090923/FREE/909239976# |tiêu đề=Crainsdetroit.com |nhà xuất bản=Crainsdetroit.com |ngày tháng=September 23, 2009 |ngày truy cập=Mayngày 24, tháng 5 năm 2010|trả tiền=yes}}</ref><ref>Stempel, Jonathan, 23/9/2009, reuters.com [http://www.reuters.com/article/internetNews/idUSTRE58M31S20090923 "Apple, Eminem headed for trial as talks break down"]</ref> Vụ kiện Apple nhanh chóng được giải quyết sau khi phiên tòa bắt đầu vào cuối tháng 9 năm 2009.<ref>{{citechú thích newsbáo |url=http://www.cbsnews.com/stories/2009/10/06/ap/music/main5366998.shtml |title=Eminem's Music Publisher, Apple Settle Dispute |publisher=Cbsnews.com |date=October 6, 2009 |accessdate=September 12, 2010 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20101113121459/http://www.cbsnews.com/stories/2009/10/06/ap/music/main5366998.shtml |archivedate=Tháng 11 13, 2010 }}</ref>
 
Tháng 7 năm 2010, [[Tòa án Phúc thẩm Hoa Kỳ khu vực chín]] phán quyết rằng F.B.T. Productions và Eminem được bồi hoàn 50 phần trăm doanh thu thuần của Aftermath từ việc cấp phép các bản thu của anh cho các công ty như Apple, [[Sprint Corporation]], [[Nextel Communications]], [[AT&T Mobility|Cingular]] và [[T-Mobile]]. Vào tháng 3 năm 2011, [[Tòa án Tối cao Hoa Kỳ]] từ chối nghe điều trần.<ref name=scotus_appeal>[https://scholar.google.com/scholar_case?case=12478269983023958737&q=F.B.T.+Productions,+LLC+v.+Aftermath+Records&hl=en&as_sdt=2,5, Petition for writ of certiorari to the United States Court of Appeals for the Ninth Circuit denied.], 21/3/2011</ref>
Dòng 256:
 
===Vấn đề về thuốc===
Eminem từng bộc bạch về chứng nghiện các loại thuốc kê đơn, trong đó có [[Hydrocodone/paracetamol|Vicodin]], [[Zolpidem|Ambien]] và [[Diazepam|Valium]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.people.com/people/article/0,,20276424,00.html|tiêu đề=Eminem Bounces Back from 20-Pill-a-Day Addiction|họ 1=McGee|tên 1=Tiffany|ngày tháng=May 4, 2009|work=[[People (tạp chí)|People]]|ngày truy cập=November 28, 2010}}</ref> Theo lời thành viên nhóm D12 [[Proof (rapper)|Proof]], mãi tới năm Eminem mới "tỉnh táo trở lại".<ref>{{Chú thích web|url= http://www.mtv.com/news/articles/1452709/20020301/eminem.jhtml|tiêu đề=Has Eminem Gone The Way Of Mase And MC Hammer?|nhà xuất bản=[[MTV News]]|ngày tháng=March 4, 2002|ngày truy cập=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008}}</ref> Trong quá trình làm phim ''[[8 Mile (phim)|8 Mile]]'' Em mắc chứng mất ngủ do phải làm việc 16 giờ một ngày. Một nhân viên đưa cho anh một viên Ambien, thứ đã "hạ gục" Eminem, dẫn tới việc anh bắt đầu sử dụng đơn thuốc. Đây là trải nghiệm đầu tiên của Eminem về chứng nghiện thuốc, thứ có ảnh hưởng lớn với anh trong nhiều năm. Gần cuối giai đoạn sản xuất ''Encore'', anh toàn "chỉ đi vào trong phòng thu và giết thời gian bằng một túi đầy thuốc viên". Eminem bắt đầu dùng thuốc vì muốn "cảm thấy ổn định", sử dụng "một số lượng [thuốc] khó tin" mà anh "có thể uống ở bất kỳ đâu", cụ thể là từ "40 tới 60 viên Valium [một ngày]", còn "Vicodin, có lẽ là 30". Những thứ thuốc này thường sẽ đưa anh vào một giấc ngủ không quá hai tiếng, sau đó anh tiếp tục uống thêm. Cân nặng của anh tăng tới {{convert|230|lb|kg}} do thường xuyên ăn [[thức ăn nhanh]]: "Mấy đứa ở quầy thu ngân biết tôi – họ cũng chẳng cảm thấy phiền phức gì. Hoặc là tôi sẽ ngồi ở quán Denny's hay Big Boy và ăn một hình. Thật đáng buồn". Eminem trở nên không thể nhận ra do tăng cân, và từng nghe thấy hai thiếu niên tranh cãi đó có phải là anh không khi họ thấy anh: "Eminem đâu có béo."<ref name="RS10"/>
 
Cuộc đấu tranh với thuốc lên tới đỉnh điểm vào năm 2007 sau khi sử dụng [[methadone]] quá liều. Eminem ban đầu mua methadone từ một con buôn nói với anh rằng nó "chỉ như Vicodin, và dễ chịu với gan hơn". Sau đó anh tiếp tục mua nhiều hơn, cho tới khi quỵ ngã trong nhà tắm vào một buổi tối và được đưa tới viện. Các bác sĩ cho biết anh đã tiêu hóa một lượng thuốc tương đương với bốn bịch [[heroin]] và "cách cái chết có hai tiếng đồng hồ". Sau khi lỡ Giáng sinh với gia đình, Eminem xuất viện khi vẫn còn yếu ớt và chưa hết hoàn toàn [[giải độc|chất độc]] trong cơ thể. Vì bị rách [[sụn chêm]] "sau khi ngủ đúng 10 phút," anh buộc phải làm phẫu thuật. Sau khi về nhà anh gặp triệu chứng co giật và tái phát trong vòng ba tuần. Eminem bắt đầu đi lễ nhà thờ để thanh tẩy, nhưng sau khi được hỏi xin chữ ký, anh lại tìm kiếm sự giúp đỡ từ một người tư vấn phục hồi chức năng. Anh bắt đầu một chương trình tập luyện thể dục, chủ yếu là chạy, và hồi phục hoàn toàn vào ngày 20 tháng 4 năm 2008. [[Elton John]] là người tư vấn cho Eminem thời gian này khi thường gọi Eminem tuần một lần để kiểm tra.<ref name=RS10>{{cite journal| last =Eells| first =Josh| date =Novemberngày 25, tháng 11 năm 2010| title =Eminem on the Road Back From Hell| journal =[[Rolling Stone]]| volume = | issue =1118 | page = | publisher =[[Jann Wenner|Wenner Media]] [[Công ty trách nhiệm hữu hạn|LLC]]| location =[[Thành phố New York]] | issn =0035-791X | url =http://www.rollingstone.com/music/news/eminem-on-the-road-back-from-hell-20111017| accessdate =Marchngày 9, tháng 3 năm 2013}}</ref>
 
===Cáo buộc phân biệt người đồng tính===
Một số ca từ của Eminem được nhiều người xem là [[kì thị đồng tính luyến ái]]. Một chính trị gia người Úc từng cố gắng cấm Eminem vào nước ông.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.hollywood.com/news/Australia_wants_to_ban_Eminem/470469 |tiêu đề=Australia wants to ban Eminem |nhà xuất bản=Hollywood.com |ngày tháng=July 2, 2001 |ngày truy cập=March 30, 2012}}</ref> Eminem luôn phủ nhận điều này, cho rằng khi anh trưởng thành những từ như "faggot" và "queer" (từ có một trong số các nghĩa của chúng để ám chỉ người đồng tính một cách miệt thị) là từ xúc phạm chung chứ không chỉ riêng người đồng tính. Trong một cuộc phỏng vấn của Em cho chương trình ''[[60 Minutes]]'', nhà báo [[Anderson Cooper]] đã khơi lên chủ đề này:<ref>{{citechú newsthích báo|title=EMINEM DISCUSSES HOMOPHOBIC LYRICS WITH ANDERSON COOPER|url=http://www.towleroad.com/2010/10/eminem-discusses-homophobic-lyrics-with-anderson-cooper.html|archiveurl=https://web.archive.org/web/20121024025240/http://www.towleroad.com/2010/10/eminem-discusses-homophobic-lyrics-with-anderson-cooper.html|archivedate =2012-10- ngày 24 tháng 10 năm 2012 |accessdate=October 2, 2012|date=November 10, 2010|agency=Towelroad.com}}</ref> Khi Cooper hỏi có phải anh không thích
người đồng tính không, Eminem trả lời rằng "Không, tôi không thấy có vấn đề gì với bất kì ai. Anh biết thế nghĩa là gì không? Tôi như tất cả mọi người thôi."
 
Anh là bạn của [[Elton John]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.contactmusic.com/news-article/john-slams-eminems-homophobic-label |tiêu đề=Elton John – John Slams Eminem's Homophobic Label |nhà xuất bản=Contactmusic.com |ngày tháng=April 8, 2005 |ngày truy cập=March 30, 2012}}</ref> Khi được hỏi ý kiến về trong cuộc phỏng vấn với tờ ''[[The New York Times]]'' về hợp pháp hóa [[hôn nhân đồng giới]] ở [[Michigan]], Eminem trả lời: "Tôi nghĩ nếu hai người yêu nhau, thì làm sao chứ? Tôi nghĩ mọi người nên có cơ hội để được cảm thương như nhau, nếu họ muốn",<ref>{{Chú thích web|url= http://today.msnbc.msn.com/id/37759634/ns/today-entertainment/t/new-tolerant-eminem-supports-gay-marriage/ |tiêu đề=New 'tolerant' Eminem supports gay marriage |nhà xuất bản=Today.msnbc.msn.com |ngày tháng=June 17, 2010 |ngày truy cập=March 30, 2012}}</ref> "ý kiến về mọi thứ" của anh "trưởn thành hơn nhiều so với ngày xưa".<ref name="QuestionsforEm">{{citechú newsthích báo|url=http://www.nytimes.com/2010/06/20/magazine/20fob-q4-t.html?_r=1|title=Questions for Eminem – The Real Marshall Mathers|last=Solomon|first=Deborah|date=June 16, 2010|accessdate=Marchngày 11, tháng 3 năm 2012|work=The New York Times}}</ref>
 
==Thành tựu và ghi nhận==
[[FileTập tin:Eminem Shanghai graffit.jpg|thumb|alt=Large graffiti picture of a serious-looking Eminem|Tranh graffiti về Eminem tại [[Thượng Hải]]]]
[[FileTập tin:Southsea Skatepark Graff (7) (3874828505).jpg|thumb|Tranh vẽ Eminem ở Công viên [[Southsea]]]]
Eminem được coi là một trong những nghệ sĩ hip-hop vĩ đại nhất mọi thời đại. Anh xếp thứ 83 trong danh sách 100 nghệ sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại của ''[[Rolling Stone]]''<ref>{{Chú thích web |url=http://www.rollingstone.com/music/lists/100-greatest-artists-of-all-time-19691231/eminem-19691231 |tiêu đề=Rolling Stone, 100 Greatest Artists of All Time |ngày truy cập=March 31, 2012 |url hỏng=yes |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20120125014622/http://www.rollingstone.com/music/lists/100-greatest-artists-of-all-time-19691231/eminem-19691231 |ngày lưu trữ=Tháng 1 25, 2012 }}</ref><ref>{{Chú thích web| tiêu đề = The Immortals: The First Fifty| work=Rolling Stone Issue 946| url= http://www.rollingstone.com/news/story/5939214/the_immortals_the_first_fifty | ngày truy cập =July 8, 2008 }}</ref> và thứ 79 trong danh sách tương tự của [[VH1]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.prnewswire.com/news-releases/michael-jackson-the-beatles-bob-dylan-led-zeppelin-and-the-rolling-stones-top-vh1s-100-greatest-music-artists-of-all-time-list-101454764.html |tiêu đề=Michael Jackson, the Beatles, Bob Dylan, Led Zeppelin, and the Rolling Stones Top... – NEW YORK, August 25 /PRNewswire/ |vị trí=New York |nhà xuất bản=Prnewswire.com |ngày tháng=Augustngày 25, tháng 8 năm 2010 |ngày truy cập=October 26, 2010}}</ref> Vào năm 2010, MTV Bồ Đào Nha chọn Eminem là biểu tượng lớn thứ 7 trong lịch sử nhạc [[pop]].<ref>[http://www.mtv.pt/programas/MTV-Top-10/episodios/MTV-top-10-episode-1/video/mtv-top-10-ep-1-pop-icons-07-eminem-601963/ MTV Top 10 | Ep. 1 | Pop Icons No.07 | Eminem | MTV Top 10 – episode 1deMTV Top 10 | Vídeo | MTV Portugal] {{wayback|url=http://www.mtv.pt/programas/MTV-Top-10/episodios/MTV-top-10-episode-1/video/mtv-top-10-ep-1-pop-icons-07-eminem-601963/ |date =2010-12- ngày 19 tháng 12 năm 2010 |archiveurl=https://web.archive.org/web/20101219074409/http://www.mtv.pt/programas/MTV-Top-10/episodios/MTV-top-10-episode-1/video/mtv-top-10-ep-1-pop-icons-07-eminem-601963|archivedate =2010-12- ngày 19 tháng 12 năm 2010}}. Mtv.pt. Truy cập 21/12/2010. {{wayback|url=http://www.mtv.pt/programas/MTV-Top-10/episodios/MTV-top-10-episode-1/video/mtv-top-10-ep-1-pop-icons-07-eminem-601963/ |date=20101219074409 }}</ref>
 
Anh là nghệ sĩ bán đĩa chạy nhất từ năm 2000 tới năm 2010 theo [[Nielsen SoundScan]] Hoa Kỳ;<ref>{{Chú thích web|họ 1=Montgomery |tên 1=James |url= http://www.mtv.com/news/articles/1627833/20091208/eminem.jhtml |tiêu đề=Eminem Is The Best-Selling Artist Of The Decade |work=MTV News |ngày tháng=December 8, 2009 |ngày truy cập=Mayngày 21, tháng 5 năm 2010}}</ref> với ước tính số album tiêu thụ trên toàn thế giới là 172&nbsp;triệu bản, Eminem là một trong những [[Danh sách nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất|nghệ sĩ bán đĩa chạy nhất thế giới]].<ref name="Turnbull">{{citechú thích newsbáo|url= https://independentaustralia.net/art/art-display/new-music-through-old-ears-shady-queen-mark-guy,7211|title=New Music Through Old Ears: Shady Queen Mark Guy|first=John|last=Turnbull|publisher=Independent Australia|date=December 20, 2014|accessdate=July 27, 2015}}</ref> Anh có trên 6 tỉ lượt xem trên kênh [[Vevo]] YouTube.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.youtube.com/user/EminemVEVO/about |tiêu đề=Eminem Vevo channel views |work=Youtube |ngày truy cập=2016-05-31}}</ref> Vào năm 2010 âm nhạc của Eminem thu hút 94&nbsp;triệu lượt stream (nhiều hơn bất kì nghệ sĩ nào),<ref name="BW-2010YE">{{Chú thích web |url=http://www.businesswire.com/news/home/20110106006565/en/Nielsen-Company-Billboard%E2%80%99s-2010-Music-Industry-Report |tiêu đề=The Nielsen Company & Billboard's 2010 Music Industry Report |nhà xuất bản=Business Wire |ngày tháng=January 6, 2011 |ngày truy cập=January 8, 2011}}</ref> và vào tháng 5 năm 2014 [[Spotify]] nêu tên anh với tư cách là nghệ sĩ được phát nhiều nhất mọi thời đại. "Love the Way You Lie" (11× bạch kim) và "Not Afraid" (10× bạch kim) là hai bài hát được chứng nhận kim cương từ RIAA giúp anh trở thành nghệ sĩ đàu tiên tại Hoa Kỳ có hai đĩa đơn được chứng nhận này tại Mỹ.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Baker|tên 1=Soren|tiêu đề=Eminem First Artist With Two Digital Diamond Awards|url=http://www.hiphopdx.com/index/news/id.29180/title.eminem-first-artist-with-two-digital-diamond-awards|website=HipHop DX|nhà xuất bản=Cheri Media Group|ngày truy cập=June 10, 2014}}</ref> Vào tháng 6 năm 2014, Eminem là nghệ sĩ nam bán đĩa chạy thứ hai kỉ nguyên [[Nielsen SoundScan]], nghệ sĩ bán đĩa chạy thứ 6 tại Hoa Kỳ và là nghệ sĩ hip hop bán đĩa chạy nhất, với 45,1 triệu album và 42 triệu bài hát (trong đó có 31&nbsp;triệu chứng nhận đĩa đơn kĩ thuật số).<ref>{{Chú thích web|tên 1= Paul |họ 1=Grein|tiêu đề=Chart Watch: 50 Cent’s Sales Slide|url=https://music.yahoo.com/blogs/chart-watch/chart-watch-50-cent-sales-slide-002425382.html|nhà xuất bản=[[Yahoo!]]|ngày tháng=June 11, 2014}}</ref><ref>{{Chú thích web|tác giả 1=Business Wire |url=http://www.businesswire.com/news/home/20120105005547/en/Nielsen-Company-Billboard%E2%80%99s-2011-Music-Industry-Report |tiêu đề=The Nielsen Company & Billboard's 2011 Music Industry Report |nhà xuất bản=Business Wire |ngày tháng=January 5, 2012 |ngày truy cập=March 30, 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web|tiêu đề = Eminem becomes first double Diamond Digital winner | url = http://www.rte.ie/ten/news/2014/0610/622925-eminem-becomes-first-double-diamond-digital-winner/ |ngày tháng= June 11, 2014}}</ref><ref name="new.music.yahoo.com">{{Chú thích web|họ 1=Grein |tên 1=Paul|url= http://new.music.yahoo.com/blogs/chart_watch/74426/week-ending-oct-23-2011-albums-casting-crowns-not-crowned/ |tiêu đề=Week Ending October 23, 2011. Albums: Casting Crowns Not Crowned &#124; Chart Watch – Archives – Yahoo! Music |nhà xuất bản=New.music.yahoo.com |ngày tháng=October 26, 2011 |ngày truy cập=March 30, 2012}}</ref> Eminem có mười album số một ''Billboard'' 200: bảy album solo (5 album phòng thu và 2 tuyển tập), hai với D12 và một với [[Bad Meets Evil]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/music/news/17386/121335 |tiêu đề= Eminem Will Score Biggest Sales Week of 2010 |work=Rolling Stone |ngày tháng=June 24, 2009 |ngày truy cập=August 12, 2010}}</ref> ''The Eminem Show'', ''The Marshall Mathers LP'', và ''Encore'' lần lượt là album bán chạy thứ 3, 7 và 40 trong thập niên 2000.<ref name="billboard.com">{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/#/charts-decade-end/billboard-200-albums?year=2009|tiêu đề=Billboard - Music Charts, Music News, Artist Photo Gallery & Free Video|work=Billboard|ngày truy cập=September 25, 2014}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/#/charts-decade-end/billboard-200-albums?year=2009&begin=21&order=position|tiêu đề=Billboard - Music Charts, Music News, Artist Photo Gallery & Free Video|work=Billboard|ngày truy cập=September 25, 2014}}</ref> Anh cũng có 13 single quán quân toàn cầu. Eminem được nhắc tới trong sự thăng tiến của các rapper như [[50 Cent]], [[Yelawolf]], [[Stat Quo]], [[Royce da 5'9"]], [[Cashis]], [[Obie Trice]], [[Bobby Creekwater]], và nhóm rap như [[D12]] và [[Slaughterhouse (nhóm hip hop)|Slaughterhouse]].
 
Vào tháng 8 năm 2011 Eminem được tạp chí ''Rolling Stone'' gọi với cấi tên Ông vua Hip-Hop sau khi phân tích doanh số album, vị trí các bảng xếp hạng R&B, hip-hop và rap, lượt xem YouTube, mạng xã hội, doanh thu biểu diễn, giải thưởng và các đánh giá phê bình của các rapper phát hành nhạc từ năm 2009 tới nửa đầu năm 2011.<ref name="rollingstone1">{{Chú thích web|tác giả 1=Chris Molanphy |url=http://www.rollingstone.com/music/news/introducing-the-king-of-hip-hop-20110815 |tiêu đề=Introducing the King of Hip-Hop|work=Rolling Stone |ngày tháng=August 15, 2011 |ngày truy cập=August 20, 2011}}</ref> Album thành công thứ hai của anh, ''The Marshall Mathers LP'', là album solo bán nhanh nhất Hoa Kỳ<ref name="MMLP">{{Chú thích web|ngày truy cập=Aprilngày 23, tháng 4 năm 2008 |url= http://www.rollingstone.com/news/story/5923810/eminem_bounces_britney_from_top_spot|tiêu đề=Eminem Bounces Britney From Top Spot |work=Rolling Stone|url lưu trữ = https://web.archive.org/web/20080401120550/http://www.rollingstone.com/news/story/5923810/eminem_bounces_britney_from_top_spot |ngày lưu trữ =April 1, 2008|url hỏng=yes}}</ref> và được xếp là một trong những album hip-hop hay nhất mọi thời đại theo ''Rolling Stone'', ''[[Time]]'' và ''[[XXL (tạp chí)|XXL]]''.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/news/story/5938174/the_rs_500_greatest_albums_of_all_time/4 |tiêu đề=The RS 500 Greatest Albums of All Time: Rolling Stone |ngày truy cập=December 21, 2008 |work=Rolling Stone |ngày tháng=November 18, 2003 |url hỏng=yes |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20090430182958/http://www.rollingstone.com/news/story/5938174/the_rs_500_greatest_albums_of_all_time/4 | ngày lưu trữ=April 30, 2009 }}
*{{citechú newsthích báo |url=http://www.time.com/time/2006/100albums/index.html|title= The All-TIME 100 Albums|accessdate=December 21, 2008|work= TIME|date= November 13, 2006}}
*{{cite journal | author=XXL |authorlink=XXL (magazine) |title=Retrospective: XXL Albums |journal= XXL Magazine |date=December 2007 }}
*{{Chú thích web |url=http://www.mtv.com/news/articles/1438949/20010201/eminem.jhtml|tiêu đề=Gay Activist Group Plans Pre-Grammy Eminem Protest| ngày truy cập= December 21, 2008 |work=MTV|ngày tháng=February 1, 2001}}
</ref> ''Rolling Stone'' xếp đây là album hay thứ 7 của thập niên 2000.<ref name="rollingstone.com">{{Chú thích web|tác giả 1=Nigel D. |url=http://realtalkny.uproxx.com/2009/12/topic/topic/discussions/rolling-stones-top-100-albums-of-the-decade/ |tiêu đề=Rolling Stones Top 100 Albums Of The Decade &#124; RealTalkNY |nhà xuất bản=Realtalkny.uproxx.com |ngày tháng=December 10, 2009 |ngày truy cập=August 20, 2011}}</ref> Đĩa đơn thứ ba của albumm "Stan", là một trong những ca khúc của Eminem nhận được đánh giá phê bình tích cực nhất, khi [[Pitchfork Media]] gọi bài hát này là "một cột mốc văn hóa".<ref>[http://www.pitchforkmedia.com/article/record_review/17456/Eminem_Curtain_Call_The_Hits Pitchfork: Album Reviews: Eminem: Curtain Call: The Hits] {{wayback|url=http://www.pitchforkmedia.com/article/record_review/17456/Eminem_Curtain_Call_The_Hits |date = ngày 3 tháng 3 năm 2009-03-03 |archiveurl= https://web.archive.org/web/20060719084929/http://pitchforkmedia.com/article/record_review/17456/Eminem_Curtain_Call_The_Hits|archivedate =2006-07- ngày 19 tháng 7 năm 2006}}. [[Pitchfork Media]] (5.12.2005). truy cập 19.1.2011. {{wayback|url=http://www.pitchforkmedia.com/article/record_review/17456/Eminem_Curtain_Call_The_Hits |date=20090303203149 }}</ref> Năm 2015, rapper [[Joe Budden]] viết một ca khúc có tên "Slaughtermouse" để tỏ lòng mến mộ Eminem.
 
Nhiều nghệ sĩ pop và hip-hop coi Eminem là niềm cảm hứng trong đó có [[Crooked I]], [[Tech N9ne]], [[Logic (rapper)|Logic]] [[Lil Wayne]], [[Nicki Minaj]], [[T.I.]], [[B.o.B]] [[Jhené Aiko]], 50 Cent,<ref>{{Chú thích web|tác giả 1= |url=http://www.azcentral.com/thingstodo/music/articles/20100320-50-cent-eminem.html |tiêu đề=50 Cent inspired by Eminem to rap |nhà xuất bản=Azcentral.com |ngày tháng=March 20, 2010 |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014|trả tiền=yes}}</ref> [[Usher (ca sĩ)|Usher]],<ref>{{Chú thích web|họ 1=Jerzy|tên 1=DJ YRS|tiêu đề=Usher talks career ups and downs, Eminem, ex-wife, and tour secrets with "Sway In The Morning" [VIDEO]|url=http://www.hip-hopvibe.com/2014/10/06/usher-talks-career-ups-and-downs-eminem-ex-wife-and-tour-secrets-with-sway-in-the-morning-video/|website=Hip Hop Vibe|ngày truy cập=October 13, 2014}}</ref> [[Earl Sweatshirt]], [[Ab-Soul]], [[Freddie Gibbs]], [[Kendrick Lamar]],<ref>{{Chú thích web|url=http://www.vladtv.com/blog/123698/kendrick-lamar-says-eminem-influenced-his-style/ |tiêu đề=Kendrick Lamar Says Eminem Influenced His Style |nhà xuất bản=Vladtv.com |ngày tháng=September 29, 2012 |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014}}</ref> [[Ed Sheeran]],<ref>{{Chú thích web|url= http://www.digitalspy.com/music/news/a340215/ed-sheerans-debut-album--inspired-by-eminem.html#~oVjOFMu74DFaZd|tiêu đề=Ed Sheeran's debut album '+' inspired by Eminem|work=Digital Spy}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.interviewmagazine.com/music/ed-sheeran|tiêu đề=Redhead Redemption: Ed Sheeran|work=Interview Magazine}}</ref> [[Lana Del Rey]],<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/music/pictures/shades-of-cool-12-of-lana-del-reys-biggest-influences-20140716|tiêu đề=Shades of Cool: 12 of Lana Del Rey's Biggest Influences|work=Rolling Stone}}</ref> [[Big Sean]],<ref>{{Chú thích web|url=http://northernstar.info/dekalb_scene/article_427fed3a-42ec-11e0-9fbd-00127992bc8b.html|tiêu đề=Big Sean talks about his past, influences|work= Northern Star Online}}</ref> [[J. Cole]],<ref>{{Chú thích web|họ 1=Langhorne |tên 1=Cyrus |url= http://www.sohh.com/2010/05/j_cole_inspired_by_eminem_canibus_i_used.html |tiêu đề=J. Cole Inspired By Eminem & Canibus, "I Used To Hang [Their&#93; Raps On My Wall" Video |nhà xuất bản=Sohh.Com |ngày tháng=May 18, 2010 |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014|url lưu trữ= https://web.archive.org/web/20100521091755/http://www.sohh.com/2010/05/j_cole_inspired_by_eminem_canibus_i_used.html|ngày lưu trữ=2010-05-21}}</ref> [[Skylar Grey]],<ref>{{Chú thích web|url=http://www.fuse.tv/videos/2013/03/sxsw-2013-skylar-grey-eminem-influence|tiêu đề=Skylar Grey Reveals Eminem's Influence on Her New Single, "C'mon Let Me Ride"|work=Fuse}}</ref> [[Bubba Sparxxx]],<ref>{{Chú thích web|url=http://freakytrigger.co.uk/ft/2003/10/bubba-sparxxx-2/ |tiêu đề=Bubba Sparxxx – |nhà xuất bản=FreakyTrigger |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014}}</ref> Asher Roth,<ref>{{Chú thích web|url=https://www.youtube.com/watch?v=qDQMZy7Or6c |tiêu đề=ASHER ROTH talks EMINEM Comparisons & Being White - New Song "As I Em" |nhà xuất bản=YouTube |ngày tháng=April 15, 2009 |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014}}</ref> [[Machine Gun Kelly (rapper)|Machine Gun Kelly]],<ref>{{Chú thích web|url=http://www.underthegunreview.net/2013/04/25/machine-gun-kelly-pays-tribute-to-eminem-in-detroit/ |tiêu đề=Machine Gun Kelly Honors Eminem In Detroit |nhà xuất bản=Under the Gun Review |ngày tháng=April 25, 2013 |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014}}</ref> Yelawolf,<ref>{{Chú thích web|họ 1=Jones |tên 1=Biz |url=http://www.sohh.com/2011/12/eminem_has_been_my_mentor_for_a_long_tim.html |tiêu đề=Eminem Has Been My Mentor For A Long Time, Says Yelawolf |nhà xuất bản=Sohh.Com |ngày tháng=December 23, 2011 |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20120107195457/http://www.sohh.com/2011/12/eminem_has_been_my_mentor_for_a_long_tim.html|ngày lưu trữ=2012-01-07}}</ref> [[Hopsin]],<ref>{{Chú thích web|tác giả 1= |url=http://www.hotnewhiphop.com/hopsin-talks-on-eminem-s-influence-and-ill-mind-of-hopsin-5-news.2812.html |tiêu đề=Hopsin Talks On Eminem's Influence & "Ill Mind Of Hopsin 5" |nhà xuất bản=Hotnewhiphop.com |ngày tháng=September 7, 2012 |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014}}</ref> [[Tyler, The Creator]],<ref>{{Chú thích web|url=http://www.complex.com/music/2011/09/tyler-the-creator-meets-eminem |tiêu đề=Tyler, The Creator Meets Eminem |nhà xuất bản=Complex |ngày tháng=September 1, 2011 |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014}}</ref> [[Hollywood Undead]],<ref>{{Chú thích web|url=http://www.theaquarian.com/2009/03/03/hollywood-undead-common-misconceptions/ |tiêu đề=Interview with Hollywood Undead: Common Misconceptions &#124; The Aquarian Weekly |nhà xuất bản=Theaquarian.com |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014}}</ref> [[Chris Webby]],<ref>{{Chú thích web |url=http://idolmag.co.uk/music-interview/chris-webby |tiêu đề=CHRIS WEBBY &#124; Idol Magazine |nhà xuất bản=Idolmag.co.uk |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014 |url hỏng=yes |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20140302212351/http://idolmag.co.uk/music-interview/chris-webby |ngày lưu trữ=Tháng 3 2, 2014 }}</ref> [[Chance the Rapper]]<ref>{{Chú thích web|họ 1=Tardio |tên 1=Andres |url=http://www.hiphopdx.com/index/news/id.25887/title.chance-the-rapper-says-he-couldn-t-meet-eminem-despite-touring-with-him |tiêu đề=Chance The Rapper Says He Couldn't Meet Eminem Despite Touring With Him &#124; Get The Latest Hip Hop News, Rap News & Hip Hop Album Sales |nhà xuất bản=HipHop DX |ngày tháng=October 31, 2013 |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014}}</ref> [[Stalley]], [[Royce da 5'9"]], [[Joe Budden]], [[Tony Yayo]], và [[The Game (rapper)|The Game]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.complex.com/music/2013/11/rappers-talk-about-their-favorite-eminem-song-album-and-moment/stalley|tiêu đề=30 Rap Artists Talk About Their Favorite Eminem Song, Album, and Moment|nhà xuất bản=Complex|ngày tháng=Novemberngày 8, tháng 11 năm 2013}}</ref> Các nhân vật đi tiên phong về rap như [[David Banner]],<ref>{{Chú thích web|url= https://www.youtube.com/watch?v=kjydpCB-rps |tiêu đề=David Banner On White Rappers Using The "N" Word |nhà xuất bản=YouTube |ngày tháng=July 19, 2011 |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014}}</ref> [[Wiz Khalifa]],<ref>{{Citation|last=nandishShady|title=Wiz Khalifa Calls Eminem One of the Greatest Rappers of All Time {{!}} Larry King Now|date =2013-03- ngày 17 tháng 3 năm 2013 |url=https://www.youtube.com/watch?v=Y7EMOs-RxY8&feature=youtu.be|accessdate =2016-04- ngày 12 tháng 4 năm 2016}}</ref> [[Talib Kweli]],<ref>{{Chú thích web|url=https://www.youtube.com/watch?v=St0670cSFe4 |tiêu đề=Talib Kweli on "White Male Privilege" & Eminem |nhà xuất bản=YouTube |ngày tháng=June 5, 2013 |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014}}</ref> [[Kool G Rap]],<ref>{{Chú thích web|url=https://www.youtube.com/watch?v=8a36MzQcfG8 |tiêu đề=Exclusive: The Last MC That Impressed Kool G. Rap Is Eminem |nhà xuất bản=YouTube |ngày tháng=January 28, 2011 |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014}}</ref> Redman,<ref>{{Chú thích web|url=https://www.youtube.com/watch?v=HID1QfQw4l8 |tiêu đề=Exclusive: Redman Talks About Eminem's 10 Grammy Nominations |nhà xuất bản=YouTube |ngày tháng=December 14, 2010 |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014}}</ref> [[Kurupt]], [[Dr. Dre]], [[N.O.R.E.]], [[Rakim]], [[Busta Rhymes]] và [[Jay Z]] đều gọi Eminem là một trong những rapper vĩ đại nhất mọi thời đại.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Kuperstein |tên 1=Slava |url=http://www.hiphopdx.com/index/news/id.9943/title.jay-z-reacts-to-mtv-s-hottest-mc-list |tiêu đề=Jay-Z Reacts To MTV's "Hottest MC" List &#124; Get The Latest Hip Hop News, Rap News & Hip Hop Album Sales |nhà xuất bản=HipHop DX |ngày tháng=October 9, 2009 |ngày truy cập=Aprilngày 17, tháng 4 năm 2014}}</ref>
 
==Danh sách đĩa nhạc==
Dòng 488:
 
==Đọc thêm==
* {{Citechú bookthích sách|last=Bozza|first=Anthony|authorlink=Anthony Bozza|title=Whatever You Say I Am: The Life and Times of Eminem|publisher=Crown Publishing Group|year=2003|location=New York, New York, Hoa Kỳ|isbn=1-4000-5059-6|ref=harv}}
* {{Citechú bookthích sách|last=Edwards|first=Paul|title=[[How to Rap]]: The Art & Science of the Hip-Hop MC|publisher=Chicago Review Press|year=2009|location= Chicago, Hoa Kỳ|isbn=1-55652-816-7}}
* {{Citechú bookthích sách |last = Goldberg |first = Bernard |authorlink = Bernard Goldberg|title = [[100 People Who Are Screwing Up America]] |publisher=[[HarperCollins]]|year = 2005 |location = New York City, United States |isbn = 0-06-076128-8 |ref = harv}}
 
== Chú thích ==