Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lịch sử Lào (sau năm 1945)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
clean up, general fixes using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 74:
Năm 1953, Lào giành được độc lập hoàn toàn từ Pháp, nhưng Pathet Lào, với sự viện trợ của Việt Nam, đã giành được quyền kiểm soát trên một vùng lãnh thổ rộng lớn, mặc dù dân cư thưa thớt, ở các khu vực miền núi dọc biên giới Việt Nam và cả một số khu vực ở phía nam. Những nơi mà sự cai trị từ Viêng Chăn chưa bao giờ phổ biến. Sự suy yếu của Pháp khiến chính phủ Hoàng gia Lào dễ bị tổn thương, và lực lượng Pathet Lào và Việt Nam tiến đến trong vòng 30 km từ Luang Phrabang. Quân đội Pathet Lào cùng với khoảng 40,000 quân Việt Minh do Đại tướng [[Võ Nguyên Giáp]] chỉ huy đã chiếm đóng các vùng phía bắc Lào bắt đầu từ ngày 16 tháng 4 năm 1953.
 
Khi người Pháp ngày càng sa lầy vào cuộc chiến ở Việt Nam, sự phản đối chính trị ở Pháp đối với cuộc chiến tranh Đông Dương ngày càng mạnh mẽ. Vào tháng 5 năm 1954, quân Pháp đã phải hứng chịu một thất bại ở [[Chiến dịch Điện Biên Phủ|Điện Biên Phủ]] miền Bắc Việt Nam, một thảm họa chính trị kèm với hậu quả lớn về mặt quân sự. Chính phủ Pháp từ chức và [[Pierre Mendès France|Pierre Mendès-France]] lên làm [[Thủ tướng Pháp|Thủ tướng]] với chủ trương rút khỏi Đông Dương. Một hội nghị quốc tế về Đông Dương đã được triệu tập tại Genève, và hội nghị diễn ra ngay sau khi Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ.
 
Đồng thời cũng có một hội nghị riêng rẽ giữa Lào và Pháp. Nghị trình Lào là một vấn đề thứ yếu tại Geneva, diễn ra từ ngày 26 tháng 4 đến ngày 21 tháng 7 năm 1954, và các quyết định về Lào được quyết định bởi việc dàn xếp sau hội nghị Việt Nam. Bộ trưởng Ngoại giao Phuy Sananikone đại diện cho chính phủ Lào và Nouhak đại diện cho Pathet Lào (như một phần của phái đoàn cộng sản Việt Nam), nhưng họ chỉ là quan sát viên do các cường quốc quyết định kết quả. Hội nghị đã được đồng ý đưa Lào trở thành một quốc gia độc lập, trung lập với một chính phủ liên minh đại diện cho tất cả các bên trong đó có Pathet Lào. Các bên đồng ý ngừng bắn vào ngày 21 tháng 7 năm 1954, và lệnh ngừng bắn có hiệu lực vào ngày 6 tháng 8 năm 1954.
Dòng 80:
Sau lệnh ngừng bắn là việc tất cả các lực lượng nước ngoài rút quân, giải tán quân đội Pathet Lào, thành lập chính phủ liên hiệp và bầu cử tự do. Khi tin tức về thỏa thuận này đến được với Lào, các chính trị gia chống cộng đã nổi giận dữ dội, trong đó tập trung vào Phuy vì đã đồng ý với các điều khoản này. Vào tháng 9, một băng nhóm được tài trợ bởi các phần tử cánh hữu đã cố gắng ám sát Phuy. Ông bị thương nhẹ, nhưng Bộ trưởng Quốc phòng [[Kou Voravong]] đã thiệt mạng. Kết quả là cuộc khủng hoảng buộc Souvanna Phouma phải từ chức, và [[Katay Don Sasorith]] thành lập chính phủ với tư cách là thủ tướng vào ngày 20 tháng 10 năm 1954. Theo Hiệp định Genève, Pháp đồng ý công nhận nền độc lập của Vương quốc Lào vào ngày 29 tháng 12 năm 1954.
==Sau hội nghị Geneva==
Hai tháng sau hội nghị Geneva, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu hành động chống lại chính phủ Hoàng gia Lào. Một tổ chức quân sự được thành lập có tên là [[Đoàn 100]] (Đoàn cố vấn quân sự Việt Nam). Trụ sở chính của nó được thành lập tại Bản Na Mèo. Mục đích của nó là để tổ chức, đào tạo, chỉ đạo và cung cấp cho quân đội của Pathet Lào. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có lợi ích đặc biệt nào đối với Hội nghị Geneva hay việc lập ra một nước Lào trung lập ngoài việc sử dụng họ trong việc củng cố sự kiểm soát với các phần phía đông của Lào. Theo Hiệp định Genève ở điều 13, sự chấm dứt và rút quân của các lực lượng bên ngoài chống đối - các đơn vị quân của Pháp và tình nguyện Việt Nam - rút khỏi Lào. Phần này của thỏa thuận, theo Điều 4a, sẽ được hoàn thành trong vòng 120 ngày.
 
Ngày 11 tháng 8 năm 1954, Ủy ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế (ICSC-Lào I) được thành lập để giám sát thỏa thuận ngừng bắn và giám sát việc giải tán các lực lượng quân sự của Pháp và Lào. ICSC-Lào I bao gồm khoảng 500 nhân viên từ Canada, Ấn Độ và Ba Lan.
 
Katay Don Sasorith là một nhân vật kém tinh tế hơn nhiều so với Souvanna Phouma, và ông ta nhận thấy nhiệm vụ thực hiện các hiệp định Geneva vượt quá khả năng của mình. Vấn đề cốt yếu là mặc dù quân Pháp thoái lui đúng lịch trình, nhưng lực lượng Việt Nam hỗ trợ Pathet Lào trong các khu căn cứ vùng cao thì không, và chính phủ Lào không có biện pháp nào để buộc họ phải làm như vậy. Theo các thỏa thuận, lực lượng Pathet Lào phải tập hợp tại các tỉnh Houaphan và Phongsali trước khi giải tán.
 
Thay vào đó, Pathet Lào và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp tục coi các tỉnh này là "vùng giải phóng", từ chối cho phép các quan chức chính phủ thực thi quyền lực, đồng thời đánh đuổi các lực lượng Hmong địa phương đã ủng hộ Pháp và hiện trung thành với chính phủ Lào. Pathet Lào cũng duy trì lực lượng ngầm ở phía nam.
 
Ngày 6 tháng 1 năm 1955, Hội nghị Hiệp thương chính trị giữa Neo Lao Issara và Chỉnh phủ Vương quốc Lào khai mạc tại Cánh đồng Chum, Xiengkhuang. Ngày 18 tháng 1, hội nghị tạm dừng do chính phủ Vương quốc Lào bỏ về Viêng Chăn. Dưới áp lực của người dân, hội nghị tiếp tục được nối lại ngày 3 tháng 2. Hội nghị kết thúc ngày 9 tháng 3 ra tuyên bố chung cam kết: "chấm dứt ngay mọi hoạt động công kích lẫn nhau; hai bên ra lệnh cho các lực lượng vũ trang đình chỉ mọi hoạt động tấn công quân sự; hai bên thoả thuận chuyển địa điểm Hội nghị hiệp thương chính trị từ Cánh đồng Chum, tỉnh Xiêng Khoảng về Viêng Chăn.
 
Sau một năm bế tắc, chính phủ Hoàng gia Lào đã tiến hành cuộc bầu cử ở phần còn lại của đất nước vào tháng 12 năm 1955. Sau cuộc bầu cử, Đảng Tiến bộ Lào (LPP) giành được 22 ghế trên 39 ghế, Đảng Độc lập Lào (LIP) do Phoui Sananikone đứng đầu giành được 7 ghế. Chính phủ của Katay bị đánh bại trong Quốc hội mới, và Souvanna Phouma trở lại nhiệm sở, vẫn quyết tâm thành lập một chính phủ liên minh trung lập. Souvanna Phouma luôn tin rằng người Lào, nếu được đoàn kết làm một, có thể giải quyết những khác biệt của chính họ, và rằng ông ta có thể đi đến một thỏa thuận với người em cùng cha khác mẹ của mình là Souphanouvong. Neo Lao Hak Sat (Mặt trận Tổ quốc Lào) được thành lập vào vào năm 1957.
Hàng 92 ⟶ 94:
Hoa Kỳ đã không phê chuẩn các hiệp định Geneva, và chính quyền [[Eisenhower]], đặc biệt là Ngoại trưởng quân sự chống cộng, [[John Foster Dulles]], chia sẻ quan điểm của các chính trị gia cánh hữu Lào. Dưới ảnh hưởng của Dulles, Mỹ đã hậu thuẫn cuộc chiến của Pháp ở Việt Nam, và bây giờ khi Pháp rời đi, ông quyết tâm rằng Mỹ sẽ tiếp quản vai trò hỗ trợ lực lượng chống cộng của Pháp ở Việt Nam và ngăn chặn lực lượng của Hồ Chí Minh chiếm miền Nam Việt Nam. Ông tin rằng điều này đòi hỏi phải duy trì một chính phủ chống cộng sản ở Lào và ngăn chặn Việt Nam sử dụng Lào làm con đường vận chuyển vào miền Nam Việt Nam.
 
Để giải quyết những điều cấm của các hiệp định Geneva - mà Hoa Kỳ đã cam kết tôn trọng - [[Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ]] vào tháng 12 năm 1955 đã thành lập một phái bộ quân sự trá hình tại Viêng Chăn được gọi là [[Văn phòng Đánh giá Chương trình]] (Programs Evaluation Office - PEO). Văn phòng bắt đầu hoạt động vào ngày 13 tháng 12 năm 1955 và hoạt động dưới vỏ bọc của phái bộ viện trợ dân sự và được biên chế bởi các quân nhân và đứng đầu là một sĩ quan, tất cả đều mặc quần áo dân sự và đã bị loại khỏi Danh sách quân nhân tại ngũ của Bộ Quốc phòng.
 
Trong giai đoạn 1955-61, Văn phòng dần thay thế sứ mệnh quân sự của Pháp trong việc cung cấp trang thiết bị và huấn luyện cho Quân đội Hoàng gia Lào và Bộlực lạclượng người Hmong chống cộng sản. Bằng cách này, Hoa Kỳ đã hỗ trợ giữ toàn bộ chi phí cho Quân đội Hoàng gia Lào trên thực địa giống như cách mà Liên Xô và Việt Nam đã chihỗ trả toàn bộ chi phítrợ cho Pathet Lào, và [[Cơ quan Tình báo Trung ương (CIAHoa Kỳ)|Cơ đangquan Tình báo Trung ương]] (CIA) cung cấp thông tin tình báo và chỉ đạo chính trị. Do đó, Mỹ phản đối mạnh mẽ những nỗ lực của Souvanna Phouma nhằm đưa Pathet Lào vào chính phủ và đưa Lào trở thành một quốc gia "trung lập". Trên thực tế, ý nghĩa trung lập là cho phép Việt Nam chiếm đóng vĩnh viễn phía đông của đất nước và cho phép Pathet Lào giữ quân đội của họ trên thực địa. Những nỗ lực của Souvanna Phouma nhằm giải quyết xung đột ở Lào luôn thất bại do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ chối rút quân và sự từ chối giải giáp vũ khí của Pathet Lào.
 
Vào tháng 8 năm 1956 Souvanna Phouma đạt được thỏa thuận với Souphanouvong. Ông được giúp đỡ bởi anh trai của mình là Hoàng thân Phetsarath, người trở về Lào năm 1956 sau mười năm sống lưu vong, và đóng vai trò trung gian và chính khách lớn tuổi cho đến khi ông qua đời năm 1959. Một chính phủ liên minh được thành lập trong đó Souphanouvong trở thành Bộ trưởng Kế hoạch và Tái thiết, và một nhà lãnh đạo khác của Pathet Lào, Phoumi Vongvichit (1909–94) là Bộ trưởng Tôn giáo và Mỹ thuật. Pathet Lào đồng ý cho phép tái hợp nhất các tỉnh Houaphan và Phongsali, đồng thời hợp nhất quân Pathet Lào vào Quân đội Hoàng gia Lào. Các bảo đảm đã được đưa ra rằng Lào sẽ là một quốc gia trung lập và sẽ không cho phép lãnh thổ của mình được sử dụng làm căn cứ để gây hấn với bất kỳ nước láng giềng nào. Chính phủ liên hiệp ra mắt vào tháng 11/1956.
Hàng 103 ⟶ 105:
 
Chính phủ Hoàng gia Lào đã làm ngơ trước điều này thay vì mạo hiểm sự thống nhất chính phủ của mình, nhưng CIA hoàn toàn biết về những sự thật này. Viện trợ của Hoa Kỳ, do [[USAID|Cơ quan Viện trợ Quốc tế Hoa Kỳ]] (USAID) chỉ đạo, tiếp tục với tốc độ 40 triệu đô la một năm (ở một quốc gia 3 triệu dân), nhưng cố tình bỏ qua Bộ Kế hoạch và Tái thiết của Souphanouvong và được chuyển đến Quân đội và các chính trị gia thân thiết.
===Hoa Kỳ can thiệp===
Để mở rộng sự ngăn chặn [[Thuyết domino|thuyết domino]], Hoa Kỳ cùng Anh, Pháp, [[Úc]], [[New Zealand]], Pakistan, Philippines, Thái Lan đã thành lập khối quân sự [[SEATO]] (Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á). Ngày 8 tháng 9 năm 1954, các nước này ký Hiệp ước phòng thủ Đông Nam Á. Điểm 4 của Hiệp ước này ghi:"trong trường hợp có xâm lược hay tiến công vũ trang chống lại những nước thành viên, các nước ký kết sẽ cùng nhau hành động"... Một điều khoản phụ nêu những nước cần SEATO bảo vệ để chống “xâm lược” và “lật đổ” trong đó có cả Lào. Với việc đặt Lào trong khối bảo trợ của Đông Nam Á, Hoa Kỳ và các nước này đã hợp pháp hóa việc chuẩn bị can thiệp vào Đông Dương.
 
Đi đôi với biện pháp quân sự, để nắm dân, mở rộng khu vực kiểm soát, Hoa Kỳ và chính phủ Hoàng gia Lào đẩy mạnh các cuộc càn quét, dồn dân lập ra các “khu chấn hưng”, “làng đoàn kết” nhằm mục đích giành dân, cô lập lực lượng cộng sản.
 
Cùng với viện trợ quân sự, kinh tế, Mỹ cho thành lập hệ thống cố vấn nắm quyền chỉ huy điều hành các chính quyền thân Mỹ phục vụ cho kế hoạch xâm lược của Mỹ ở Việt Nam và Lào. Trong mỗi giai đoạn chiến tranh, các tổ chức cố vấn Mỹ đều có sự thay đổi về tên gọi để phù hợp với tình hình cụ thể. ở miền Nam Việt Nam, Mỹ thành lập tổ chức MAAG (Nhóm cố vấn hỗ trợ quân sự) từ năm 1950 khi còn làm nhiệm vụ viện trợ giúp Pháp. Đến giữa năm 1956, Mỹ cho thành lập ở Sài Gòn bốn tổ chức cố vấn với những tên gọi khác nhau MAAG, TRIM, CATO, TERM. Đồng thời cũng thiếp lập MAAG ở Lào từ năm 1961 để thay thế cho Văn phòng Đánh giá Chương trình. Sau đó bị các nước lên án, Hoa Kỳ đã thay thế bằng [[Văn phòng Thiết yếu]] (Requirements Office, RO) năm 1962 để tiếp tục cung cấp cho Quân đội Hoàng gia Lào các loại vũ khí và vật tư để hỗ trợ nỗ lực chiến tranh.
==Lào 1958-1959==
Do tham nhũng trong việc phân phối viện trợ quốc tế khiến chính phủ của Souvanna Phouma sớm gặp khó khăn. Mỹ và các nhà tài trợ viện trợ khác đã nhấn mạnh vào việc cải cách tiền tệ để ngăn chặn tình trạng lạm phát phi mã mà chính họ đã gây ra do bơm tiền vào một nền kinh tế kém phát triển như vậy. Souvanna Phouma đã chống lại, vì sợ rằng sự mất giá sẽ ảnh hưởng đến người dân Lào.
Hàng 150 ⟶ 158:
Pathet Lào tin rằng họ đang trên đà chinh phục toàn bộ đất nước, và cuối năm 1961, họ bắt đầu một cuộc tấn công ở tỉnh Luang Namtha, nhanh chóng đánh tan lực lượng Phoumi. Kỷ luật cộng sản được tổ chức và họ đồng ý với một thỏa hiệp mà họ không có niềm tin thực sự. Vào tháng 6, Souvanna Phouma, Souphanouvong và Boun Oum gặp nhau tại Cánh đồng Chum và đồng ý thành lập một chính phủ gồm 11 người trung lập, 4 cánh hữu và 4 Pathet Lào. Boun Oum rút lui khỏi chính trường, Souphanouvong và Phoumi trở thành phó thủ tướng trong chính phủ thứ tư của Souvanna Phouma, nhậm chức vào tháng 6 năm 1962 với sự ủng hộ của tất cả các phe phái.
 
Ngày 26/6/1962, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ thị ngừng hoạt động quân sự ở Lào. Trước những diễn biến chính trị mới ở Lào, nhận thấy, nếu Việt Nam tiếp tục hoạt động quân sự sẽ không có lợi về chính trị, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam Lê Trọng Tấn điện chỉ thị cho Quân khu 4 và Quân khu 3 nêu rõ: chủ trương hiện nay, đình chỉ mọi hoạt động quân sự (kể cả tiễu phỉ), nhưng phải cảnh giác đề phòng địch tấn công. Nếu địch đánh ra thì điện thẳng cho Bộ Tổng Tham mưu và Pathet Lào để kịp thời đấu tranh với địch. Cần có biện pháp tích cực vận động Phoumi không hoạt động quân sự, không đánh lấn ra, quân đội giữ nguyên vị trí, thi hành lệnh ngừng bắn của Chính phủ liên hiệp. Đồng thời Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam chuẩn bị kế hoạch rút quân khỏi Lào, lập kế hoạch củng cố lực lượng vũ trang cho Pathet Lào,.
 
Ngày 23/7/1962, Ngoại trưởng 14 nước tham dự Hội nghị Geneva mở rộng ký kết các văn kiện. Trong văn kiện thứ nhất, các nước tham dự hội nghị đã xác nhận lại và phát triển thêm những nguyên tắc căn bản đã được ghi trong Hiệp định Geneva 1954 về Đông Dương, quy định nghĩa vụ phải nghiêm chỉnh tôn trọng nền độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Lào, cam kết không can thiệp bằng bất cứ cách nào vào công việc nội bộ của Lào, không đề nghị hoặc thúc ép Lào tham gia vào bất cứ liên minh quân sự nào không phù hợp với nền trung lập của Lào. Trong Nghị định thư, các nước nêu ra một số nguyên tắc cơ bản để giải quyết hoà bình vấn đề Lào. Nghị định thư quy định thời hạn rút quân và nhân viên quân sự nước ngoài ra khỏi lãnh thổ Lào, quyền hạn và chức năng của Ủy ban Giám sát và Kiểm soát quốc tế ở Lào cũng như mối quan hệ của cơ quan này với Chính phủ Vương quốc Lào.