Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Parks (DE-165)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Liên kết ngoài: AlphamaEditor, thêm thể loại, Executed time: 00:00:05.2572391 using AWB
Dòng 77:
 
== Lịch sử hoạt động ==
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại khu vực [[Bermuda]] và huấn luyện ngoài khơi [[Norfolk, Virginia]], ''Parks'' quay trở lại [[thành phố New York|New York]] trước khi lên đường để hướng sang khu vực [[Mặt trận Thái Bình Dương]]. Sau hành trình đi ngang qua [[kênh đào Panama]], [[quần đảo Galapagos]] và [[Bora Bora]] thuộc [[quần đảo Society]], nó đi đến [[Noumea]], [[New Caledonia]] để bắt đầu đảm nhiệm vai trò hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa khu vực [[Espiritu Santo]], [[New Hebrides]] và [[Guadalcanal]]-[[đảo Nggela|đảo Florida]]. Ngoài ra nó còn thực hiện các chuyến đi ngắn đến [[Rendova]], [[New Georgia]] vào [[tháng 1]], [[1944]]; đến [[Funafuti]] thuộc [[quần đảo Ellice]] và [[đảo Manus]] thuộc [[quần đảo Admiralty]] vào [[tháng 4]] để tuần tra và hộ tống vận tải, cũng như hai lần từng ghé đến [[Efate]] thuộc [[New Hebrides]].<ref name=DANFS/>
 
Đi đến [[Eniwetok]] thuộc [[quần đảo Marshall]] vào [[tháng 6]], ''Parks'' hộ tống bảo vệ các tàu tàu chở dầu tiếp nhiên liệu cho [[Đệ Ngũ hạm đội Hoa Kỳ|Đệ Ngũ hạm đội]] đang tiến hành [[trận Saipan|cuộc đổ bộ]] lên [[Saipan]], và sau đó làm nhiệm vụ hộ tống trong [[trận Guam (1944)|cuộc đổ bộ]] lên [[Guam]]. Nó lên đường đi Manus ngang qua Eniwetok, nơi được phân công hộ tống một đội đặc nhiệm tàu chở dầu và [[tàu sân bay hộ tống]] trong các chiến dịch đổ bộ lên [[Palau]] và [[Ulithi]]. Sau đó nó hoạt động từ căn cứ Ulithi để hỗ trợ cho hoạt động của lực lượng [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]] nhằm tái chiếm [[Philippines]].<ref name=DANFS/>
 
Được lệnh quay trở về vùng bờ Tây Hoa Kỳ, ''Parks'' rời Ulithi vào [[tháng 11]], đi ngang qua Manus và [[Trân Châu Cảng]] trước khi về đến [[Newport Beach, California]], và được đại tu tại đây. Sau khi hoàn tất, nó khởi hành từ [[San Diego]], California vào ngày [[16 tháng 4]], [[1945]] để hướng đến Eniwetok, và cho đến khi chiến tranh kết thúc đã hoạt động tại khu vực giữa Eniwetok và Ulithi, làm nhiệm tìm kiếm và giải cứu cũng như tuần tra [[Chiến tranh chống tàu ngầm|chống tàu ngầm]]. Sau khi [[Đế quốc Nhật Bản|Nhật Bản]] đã [[Nhật Bản đầu hàng|chấp nhận đầu hàng]] vào ngày [[15 tháng 8]] giúp kết thúc cuộc xung đột, nó đi đến [[Majuro]] rồi tiếp tục hướng đến [[đảo san hô Mili|Mili]] để tiếp quản việc đầu hàng của khoảng 2.400 quân Nhật trú đóng tại đây. Sau khi nghi thức đầu hàng được thực hện vào ngày [[28 tháng 8]], con tàu tiếp tục ở lại khu vực làm nhiệm vụ giám sát, giải giới, phá hủy đạn dược và rà phá các bãi [[thủy lôi]].<ref name=DANFS/>
 
Đến ngày [[13 tháng 9]], ''Parks'' được lệnh quay trở về Hoa Kỳ, và đã đi ngang qua Majuro, [[Kwajalein]] và [[Trân Châu Cảng]] trước khi về đến [[San Diego]]. Nó tiếp tục băng qua kênh đào Panama để đi sang vùng bờ Đông, và sau khi được đại tu tại [[Xưởng hải quân Brooklyn]], con tàu đi đến [[Green Cove Springs, Florida]] vào ngày [[29 tháng 11]], nơi nó được đưa về thành phần dự bị thuộc Hạm đội 16, tiền thân của [[Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương]]. Nó được cho xuất biên chế vào [[tháng 3]], [[1946]], rồi chuyển đến neo đậu tại [[Philadelphia]], [[Pennsylvania]] và bị bỏ không tại đây cho đến khi được rút tên khỏi danh sách [[Đăng bạ Hải quân]] vào ngày [[1 tháng 7]], [[1972]]. Con tàu bị bán để tháo dỡ vào ngày [[15 tháng 10]], [[1973]].<ref name=DANFS/><ref name=NavSource/>
 
== Phần thưởng ==