Khác biệt giữa bản sửa đổi của “X quang ngực”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Nốt: Cập nhật danh pháp theo TCVN, GF, replaced: Can xi → Calci using AWB
n →‎Mốc giải phẫu: clean up, replaced: {{cite journal → {{chú thích tạp chí (2)
Dòng 34:
[[Tập tin:Chest_labeled.png|nhỏ|300x300px|Phim X quang ngực thẳng đánh dấu các cung xương sườn và một số mốc khác.]]
[[Tập tin:Mediastinal_structures_on_chest_X-ray,_annotated.jpg|nhỏ|300x300px|Cấu trúc của trung thất trong phim X quang ngực thẳng.]]
Bình thường cơ hoành thường nằm giữa cung trước xương sườn 5 đến 7 tại đường giữa đườn, và cung sau xương sườn 7 đến 10. Trường hợp quan sát được nhiều xương sườn có thể xuất hiện trong tăng thông khí ở [[Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính|bệnh phổi tắc nghẽn]] hoặc hít vào quá mức. Giảm thông khí có thể xảy ra ở bệnh phổi hạn chế, [[tràn dịch màng phổi]] hoặc xẹp phổi. Tăng thông khí có thể gây các dấu hiệu như bệnh phổi kẽ. Tăng kích thước của động mạch phổi xuống phải có thể phản ánh giản tiếp tình trạng tăng áp động mạch phổi, với tăng trên 16mm ở nam và trên 15mm ở nữ.<ref>{{citechú journalthích tạp chí|last1=Bush|first1=A|last2=Gray|first2=H|last3=Denison|first3=DM|title=Diagnosis of pulmonary hypertension from radiographic estimates of pulmonary arterial size.|journal=Thorax|date=February 1988|volume=43|issue=2|pages=127–31|pmid=3353884|doi=10.1136/thx.43.2.127|pmc=1020754}}</ref>
 
Tia phù hợp với phim có thể được xác định bằng nhìn mờ cột sống và ranh giới phổi sau tim. Cơ hoành phải thường cao hơn trái do gan. [[Phổi|Khe ngang]] đôi khi có thể quan sát thấy dưới dạng một đường nằm ngang ngang mức xương sườn 5 - 6. Thay đổi góc carina có thể nghi ngờ có khối u hoặc bệnh lý ở trung thất giữa hoặc phì đại [[Tâm nhĩ|nhĩ trái]]. Góc bình thường của carina là 60 độ. Đánh giá đường cạnh khí quản phải giúp nhận biết các bệnh lý ở trung thất sau, đặc biệt là cột sống và các mô mềm cạnh cột sống; kích thước của nó thường nhỏ hơn hoặc bằng 3mm. Đường cạnh khí quảntrái thay đổi hơn, thường quan sát được ở khoảng 25% bệnh nhân.<ref>{{citechú journalthích tạp chí|last1=Gibbs|first1=JM|last2=Chandrasekhar|first2=CA|last3=Ferguson|first3=EC|last4=Oldham|first4=SA|title=Lines and stripes: where did they go?--From conventional radiography to CT.|journal=Radiographics: a review publication of the Radiological Society of North America, Inc|date=2007|volume=27|issue=1|pages=33–48|pmid=17234997|doi=10.1148/rg.271065073}}</ref>
 
Xác định vị trí tổn thương hoặc nhiễm trùng có thể khá khó khăn trong phim x quang ngực nhưng có thể dựa vào dấu hiệu bóng mờ và dấu hiệu che lấp rốn phổi. Nếu mờ  [[Cơ hoành|một bên cơ hoành]] thì có thể tổn thương liên quan đến thùy dưới. Nếu bờ phải tim mờ, có thể có bệnh lý ở thùy giữa hoặc biến dạng ngực lõm lòng thuyền. Nếu mờ bờ trái tim thì có thể có bệnh lý ở [[Phổi|thùy lưỡi]].<ref>{{chú thích sách|last1=Gandhi|first1=Sanjay|title=Chest Radiology: Exam Revision Made Easy|date=ngày 7 tháng 12 năm 2013|publisher=JMD Books|pages=541 pages|edition=1st|access-date =}}</ref>