Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Piotruś”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
clean up, general fixes using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 7:
 
== Tính chất vật lý ==
Là ngọn núi cao nhất ở Beskid Dukielski,<ref name="Krukar2007-193">{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=bLBqfXsriOwC&pg=PA193|title=Beskid Niski: przewodnik|last=Wojciech Krukar|publisher=Oficyna Wydawnicza "Rewasz"|year=2007|isbn=978-83-89188-63-2|page=193|access-date=ngày 8 tháng 6 năm 2012}}</ref> Piotruś có cấu trúc tương đối bằng phẳng, đặt cho nó cái tên thay thế là Płazyna.<ref name="Krukar2007-180">{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=bLBqfXsriOwC&pg=PA180|title=Beskid Niski: przewodnik|last=Wojciech Krukar|publisher=Oficyna Wydawnicza "Rewasz"|year=2007|isbn=978-83-89188-63-2|pages=180–181|access-date=ngày 8 tháng 6 năm 2012}}</ref> Ngọn núi có hình lưỡi liềm, thẳng hàng theo hướng bắc-nam. Nó được giới hạn ở phía tây và phía nam bởi thung lũng của sông Jasiołka, tách nó ra khỏi núi Ostra ở phía nam.<ref name="Ruciński">{{Chú thích web|url=http://www.geology.sk/doc/min_slov/ms_2008_3_4/16_Geo_231_252.pdf|title=Geology of the Piotrus Mt. massif in the Dukla nappe, Outer Carpathians, Poland|author=Ruciński|first=P.|author2=Cieszkowski M.|year=2008|website=Environmental, Structural and Stratigraphic Evolution of the Western Carpathians|access-date=ngày 27 tháng 6 năm 2012}}</ref> Ngọn núi được bao phủ bởi rừng, chủ yếu là những [[Chi Cử|cây sồi]] già, và gần đỉnh, các loại [[Chi Cáng lò|bạch dương]], [[thanh lương trà châu Âu]] và [[Chi Tống quán sủ|Tống quán sủ]].<ref name="Krukar2007-193" /> Một khu rừng [[Chi Vân sam|vân sam]] trên sườn phía tây của Piotruś hầu hết bị phá hủy trong một vụ hỏa hoạn trong thời kỳ [[Giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh|giữa 2 cuộc chiến tranh]]. Một tảng đá [[Cát kết|sa thạch]] màu vàng được hiển thị nổi bật trên đỉnh núi, có khả năng đóng góp cho tên của nó (Piotr - tiếng Ba Lan để chỉ [[Peter]] - cũng có nghĩa là đá). Một số trong số đó đã được khai quật cho các tòa nhà, và một số khối lớn không sử dụng có thể được tìm thấy.<ref name="Krukar2007-180" />
 
Ngọn núi là nguồn cho nhiều dòng suối, tạo thành những cái ao nhỏ <ref name="Krukar2007-180">{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=bLBqfXsriOwC&pg=PA180|title=Beskid Niski: przewodnik|last=Wojciech Krukar|publisher=Oficyna Wydawnicza "Rewasz"|year=2007|isbn=978-83-89188-63-2|pages=180–181|access-date=ngày 8 tháng 6 năm 2012}}</ref> trong đó lớn nhất được gọi là ''Murowana Studnia '.'' ''Một cái ao khác (Holy Water, Ba Lan:'' więta Woda '') được liên kết với truyền thuyết về Thánh John của Dukla, người được cho là đã nghỉ ngơi ở đó.'' ''Ngoài ra còn có một "hòn đá giáo hoàng" ("Kamień papieski), kỷ niệm sự hiện diện của [[Giáo hoàng Gioan Phaolô II|Karol Wojtyła]] ở đây.<ref name="Krukar2007-193">{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=bLBqfXsriOwC&pg=PA193|title=Beskid Niski: przewodnik|last=Wojciech Krukar|publisher=Oficyna Wydawnicza "Rewasz"|year=2007|isbn=978-83-89188-63-2|page=193|access-date=ngày 8 tháng 6 năm 2012}}</ref>'' ''Một nhà nguyện nhỏ đã được xây dựng tại địa điểm này vào năm 2005.<ref name="Krukar2007-180" />''