Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cửa Tư Hiền”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
→Cửa Tư Hiền dấu ấn của tự nhiên và lịch sử: clean up, general fixes, replaced: “ → " (8), ” → " (8) using AWB |
||
Dòng 36:
Đầm Cầu Hai có diện tích lớn nhất, rộng 11.200 ha, hình bán nguyệt, vòng cung hướng về phía quốc lộ 1A, chỗ rộng nhất lên tới 6 km (Đá Bạc- Túy Vân), từ đầm Thủy Tú đến Vĩnh Phong (núi Rẫm) 11 km, từ cửa sông Đại Giang đến đèo Phước Tượng 17 km, sâu trung bình từ 1 đến 1,5 m, có chỗ sâu nhất trên 2 m. Kể từ khi có có Thuận An (1404), Tư Hiền thành cửa phụ nên đầm Cầu Hai bị phù sa bồi nông trung bình 1mm đến 1,4mm mỗi năm.
Trong đề tài nghiên cứu hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai của 4 tác giả Trần Đức Thạnh, Nguyễn Hữu Cử, Nguyễn Chu Hồi, Nguyễn Văn Tiến công bố ở
Tôi tạm gọi cửa Tư Hiền ở vị trí phía trên, gần núi Phụ An (núi Đồng Đò) là cửa Tư Hiền trên; cửa Tư Hiền ở vị trí phía dưới, gần núi Vĩnh Phong, sát mũi Chân Mây Tây là cửa Tư Hiền dưới để tránh lẫn lộn, nhầm lẫn đối với người đọc.
Dòng 42:
- Thời còn thuộc Chăm Pa (1306 trở về trước), đầm Cầu Hai có tên là đầm Ô Long nên cửa biển có tên Ô Long hải khẩu. Trong kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ 2 (1284-1285), 10 vạn quân giặc do Toa Đô chỉ huy sau khi không khuất phục được Chiêm Thành đã lui quân vào cửa Ô Long đóng ở vùng đầm Ô Long để làm gọng kìm tấn công mặt nam Đại Việt, lúc Thoát Hoan đánh Đại Việt từ phía bắc.
- Khi thuộc về Đại Việt (từ 1306), đầm Cầu Hai có tên Nhi Hải.
- Năm 1361, quân Chiêm vào cửa Tư Dung, tiến lên đánh thành Hóa Châu. Quân, dân vùng Hóa Châu phải chiến đấu suốt 5 tháng mới đẩy lui được giặc. Sau sự việc nầy, triều đình Nhà Trần cho lập đồn canh, tăng quân để giữ của Tư Dung.
- Tháng Giêng Tân Mão (1471), Lê thánh Tông trên đường vào đánh Chăm Pa đã vào cửa Tư Dung lập hành cung nghỉ chân, cho thủy quân ra biển luyện tập. Tháng Ba, vua đi thuyền lên ngã ba Sình thăm chùa Sùng Hóa, ở lại làng Lại Ân, ngắm cảnh sông Kim Trà (sông Hương), vua lấy một người con gái làng Hòa Duân nạp cung mang về Thăng long, sau cô nầy sinh ra hoàng tử Triệu vương. Cuối tháng Ba, thời tiết thuận lợi, vua xuất quân ra cửa Tư Dung đem đại binh vào đánh thành Đồ Bàn. Theo ĐạiNamnhất thống chí, vua Lê Thánh Tông có nhận định về địa thế Tư Dung như sau:
- 1527 Nhà Mạc thành lập, do kị húy vua Mạc Đăng Dung nên cửa Tư Dung đổi thành Tư Khách. Tên gọi nầy dùng cho đến năm 1592 lúc Nhà Mạc sụp đổ.
Dòng 56:
- Tháng 5 năm 1786 (Bính Ngọ), Nguyễn Huệ vào cửa Tư Dung, theo nội thủy lên đánh chiếm Phú Xuân, đuổi quân Trịnh chạy ra Bắc. Sau đó, thủy quân Tây Sơn lại ra cửa Tư Dung theo đường biển tiến ra Bắc lần thứ nhất với danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh để diệt nhà Trịnh.
- Sau khi đánh thắng quân Thanh đầu mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), Vua Quang Trung ngự già về Tư Dung thị sát trận địa để lập kế hoạch phòng thủ chung quanh Phú Xuân. Ngô Thì Nhậm được tòng giá. Bài
- Ngày 11/6/1801 nhằm ngày 1 tháng 5 năm Tân Dậu, Thủy quân Nguyễn Ánh do Lê Văn Duyệt và Lê Chất chỉ huy tấn công 2 vạn quân Tây Sơn ở phòng tuyến Tư Dung - Linh Thái do phò mã Nguyễn Văn Trị chỉ huy. Quân Nguyễn Ánh nhân đêm tối vượt bờ Hà Trung đánh bất ngờ, quân Tây Sơn thua, Nguyễn Văn Trị bị bắt sống ở Trường Hà.
|