Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Phúc Bửu Tủng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
→‎Tiểu sử: clean up, general fixes, replaced: “ → ", ” → " using AWB
Dòng 26:
Năm [[Thành Thái]] thứ 12 ([[1900]]), hoàng tử Bửu Tủng mất khi mới chừng 14 - 15 tuổi, không con cái<ref name=":1">''Đại Nam thực lục'', phụ biên, mục 0947</ref>. Vua sai chọn đất tốt ở hành cung Vạn Tuế trong cấm thành làm nơi đặt phần mộ cho hoàng tử<ref name=":1" />. Tẩm mộ của ông nằm ở phía đông nam của [[lăng Đồng Khánh]] (nay thuộc phường [[Thủy Xuân]], [[Huế]]).
 
Tháng 12 (âm lịch), năm [[Khải Định]] thứ 2 ([[1917]]), vua truy tặng cho người em Bửu Tủng làm '''An Hóa công''' (安化公), [[thụy]] là '''Đôn Chính''' (敦正)<ref name=":2">''Đồng Khánh Khải Định chính yếu'', tr.307-308</ref>. Vua xuống dụ, có lời rằng: "''Cố đệ Bửu Tung, thuở nhỏ thông minh, đến tuổi thiếu niên mất sớm, như đóa hoa tràm vừa trổ, hương ngát đã tan bay''"<ref name=":2" />.
 
Năm sau ([[1918]]), tháng 6 (âm lịch), vua [[Khải Định]] cho Công tôn Bửu Diễm, con của công tử Ưng Quyền (Quyền là con của ''Kiên Thái vương'' [[Nguyễn Phúc Hồng Cai|Hồng Cai]]), tập phong làm ''Huyện hầu'', sang quá kế ở phòng An Hóa công<ref name=":2" />. Do Bửu Diễm về vai vế là em họ của vua [[Khải Định]] và An Hóa công Bửu Tủng nên phải đổi tên thành Vĩnh Thùy cho phù hợp với bài [[Đế hệ thi]]<ref name=":3" /><ref name=":2" />. Vĩnh Thùy giữ chức ''Tả tôn khanh [[phủ Tôn Nhân]]'', con trai ông (không rõ tên) tập tước ''Hương công''<ref name=":3" />.