Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cecil Rhodes”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Nam Phi: clean up, general fixes using AWB
Tính năng gợi ý liên kết: 3 liên kết được thêm.
Dòng 34:
}}
 
'''Cecil Rhodes''', thành viên [[Hội đồng Cơ mật Hoàng gia Anh]], tiến sĩ Luật Dân sự, (5 tháng 7 năm 1853 – 26 tháng 3 năm 1902)<ref name=Times1>"Death Of Mr. Rhodes", ''[[The Times]]'', ngày 27 tháng 3 năm 1902; pg. 7</ref> là một doanh nhân, [[Chính khách|chính trị gia]], trùm khai mỏ [[Cộng hòa Nam Phi|Nam Phi]] sinh tại Anh. Ông đã lập nên Công ty kim cương [[De Beers]], ngày nay chiếm đến 40% thị trường kim cương thô toàn cầu và từng có thời kỳ đóng góp đến 90% lượng kim cương thô buôn bán trên thế giới.<ref>Martin Meredith, ''Diamonds Gold and War'', (New York: Public Affairs, 2007):162</ref>
Là người có niềm tin mãnh liệt vào [[chủ nghĩa đế quốc]] Anh, ông đã thành lập nên vùng lãnh thổ [[Rhodesia]] ở nam châu Phi, vùng đất được đặt theo tên ông năm 1895. Năm 1964, [[Rhodesia Bắc]] trở thành một bang độc lập của [[Zambia]] và [[Rhodesia Nam]] từ đó được biết đến là Rhodesia. Năm 1980, Rhodesia, trên thực tế đã độc lập từ 1965, trở thành một quốc gia độc lập được công nhận quốc tế và đổi tên thành [[Zimbabwe]]. Đại học Rhodes của Nam Phi cũng được đặt tên theo ông. Bên cạnh đó, một quỹ học bổng mang tên Rhodes cũng được đóng góp tài chính từ tài sản của Rhodes.
 
Nhà sử học Richard A. McFarlane đã gọi Rhodes là "một người góp công không thể thiếu trong lịch sử huy hoàng của Anh và nam Phi châu cũng như [[George Washington]] hay [[Abraham Lincoln]] trong những thời kỳ tương ứng của lịch sử nước Mỹ... Phần lớn lịch sử Nam Phi bao trùm trong những thập kỷ cuối cùng của [[thế kỷ 19]] là những đóng góp lịch sử của Cecil Rhodes."<ref>Richard A. McFarlane. Historiography of Selected Works on Cecil John Rhodes (1853–1902). History in Africa, Vol. 34 (2007), pp. 437–446 (available in JSTOR)</ref>
Dòng 44:
thứ 5 trong gia đình [[cha xứ]] Francis William Rhodes và vợ Louisa Peacock Rhodes. Cha ông là một cha sở (vicar) [[Giáo hội Anh]], người luôn tự hào là không bao giờ thuyết giáo quá mười phút. Trong số những anh chị em của ông có Francis William Rhodes, người sau này trở thành một viên chức quân đội.
 
Rhodes đã theo học trường tiểu học Bishop's Stortford từ khi 9 tuổi nhưng vì ốm yếu và bệnh hen suyễn mà ông phải thôi học vào năm 1869 và, theo Basil Williams,<ref>{{chú thích web | url = http://books.google.com/books?id=A1txHgXvlU4C | tiêu đề = Cecil Rhodes | author = | ngày = | ngày truy cập = 12 tháng 10 năm 2015 | nơi xuất bản = Google Books | ngôn ngữ = }}</ref>, ông "tiếp tục việc học của mình dưới sự giám sát của cha ông... Sức khỏe của ông khá yếu và có cả những nỗi lo sợ rằng ông bị bệnh lao, căn bệnh mà nhiều người trong gia đình ông đã có triệu chứng. Cha ông sau đó đã quyết định gửi ông ra nước ngoài để thử những hiệu quả của một chuyến hải hành và khí hậu tốt hơn. Herbert [anh trai của Cecil] đã xây dựng một [[đồn điền]] ở Natal, Nam Phi, do đó Cecil đã được gửi theo một chiếc thuyền buồm đến gặp Herbert ở Natal. Hành trình tới [[Durban]] mất 70 ngày, và ngày 1 tháng 9 năm 1870, Rhodes lần đầu tiên đặt chân lên mảnh đất châu Phi, một cậu bé tóc nhạt, gầy gò, xanh xao, cao lêu nghêu, có dáng điệu nhút nhát và bẽn lẽn." Gia đình ông đã hy vọng rằng khí hậu sẽ cải thiện sức khỏe của ông. Họ cũng mong chờ ông sẽ đỡ đần người anh Herbert<ref>Người này không phải là [[Herbert Rhodes]]</ref> đang làm chủ một trang trại trồng bông<ref name=thomas>{{chú thích sách | last = Thomas | first = Anthony | year = 1997 | month = November | title = Rhodes: The Race for Africa | url = https://archive.org/details/rhodes0000thom | publisher=London Bridge | isbn = 0-563-38742-4}}</ref>.
[[Tập tin:Cecil Rhodes as a boy.jpg|nhỏ|upright|trái|Cậu bé Rhodes]]