Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lao động thặng dư”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
clean up, general fixes, replaced: “ → " (10), ” → " (10) using AWB
Dòng 2:
{{unreferenced}}
 
'''''Lao động thặng dư''''' là một khái niệm được sử dụng bởi [[Karl Marx]] trong bài phê bình [[kinh tế chính trị]] của ông. Nó tồn tại khi mà khối lượng lao động được thực hiện vượt quá khối lượng lao động mà người lao động cần thực hiện để cung cấp đủ điều kiện sinh sống cho chính họ (“lao"lao động cần thiết”thiết"). Từ “thặng"thặng dư”dư" trong ngữ cảnh này có nghĩa là khối lượng lao động thêm mà người lao động phải làm trong công việc của họ, vượt quá số tiền mà họ có được. Theo [[học thuyết kinh tế của Marx]], lao động thặng dư thường là để chỉ những lao động không được đền bù (trả công). Học thuyết kinh tế của Marx coi lao động thặng dư như là một nguồn quan trọng nhất của những [[lợi nhuận]] tư bản.
== Nguồn gốc của lao động thặng dư ==
Dòng 10:
{| class="wikitable"
|-
| “Chỉ"Chỉ sau khi loài người tự nâng họ vượt lên khỏi bậc động vật, vì thế khi đó lao động của họ ở một mức độ nào đó đã được xã hội hóa, và cũng chính lúc đó trạng thái của mọi vật nảy sinh mà trong số đó lao động thặng dư đã trở thành một điều kiện của sự tồn tại của những cái khác. Trong buổi bình minh của nền văn minh năng suất mà người lao động đạt được còn thấp, nhưng những nhu cầu phát triển cùng với nó cũng vậy và chỉ là để thỏa mãn họ. Hơn nữa, ở thời kỳ đầu, tỉ lệ xã hội sống trên lao động của người khác vô cùng nhỏ so với khối lượng những người sản xuất trực tiếp. Cùng với sự phát triển của năng suất lao động, tỷ lệ nhỏ đó trong xã hội cũng tăng lên một cách vừa tuyệt đối vừa tương đối. Bên cạnh đó, tư bản với những mối quan hệ đi cùng với nó đã sinh sôi nảy nở từ một vùng đất kinh tế, đó là sản phẩm của sự phát triển. Năng suất lao động, cái mà đã phục vụ như nguồn gốc, như điểm bắt đầu của nó, là một món quà, không phải cái gì của tự nhiên, nhưng lại là của lịch sử hàng ngàn thế kỷ."
 
|}
Dòng 21:
 
== Lao động thặng dư và chủ nghĩa duy vật lịch sử ==
Trong tập 3 của bộ “Tư"Tư bản”bản", Marx đã nhấn mạnh vai trò trung tâm của lao động thặng dư:
{| class="wikitable"
|-
| “Hình"Hình thức kinh tế đặc trưng mà trong đó những lao động thặng dư không được trả công được sinh ra bởi những người sản xuất trực tiếp quyết định mối quan hệ giữa kẻ thống trị và kẻ bị trị, bởi vì nó tự phát triển trực tiếp bên ngoài sự sản xuất và lần lượt tác động trở lại ngay chính nó như là một nhân tố quyết định. Mặc dù vậy, ngay sau khi điều này được hình thành, toàn bộ hệ thống của cộng đồng kinh tế, nhân tố mà bản thân nó phát triển không phụ thuộc vào những quan hệ sản xuất và do đó đồng thời cũng không phụ thuộc vào hình thái chính trị đặc trưng của nó. Luôn luôn là nó: mối quan hệ trực tiếp giữa những người sở hữu những điều kiện sản xuất và những người sản xuất trực tiếp – một mối quan hệ một cách tự nhiên luôn luôn giống như một giai đoạn xác định trong sự phát triển của những phương thức lao động và vì vậy cũng giống như một giai đoạn xác định trong sự phát triển của năng suất lao động xã hội của chính nó – điều đã vạch trần bí mật sâu kín nhất, nền tảng được che giấu của toàn bộ cấu trúc xã hội và với nó hình thức chính trị của mối quan hệ giữa chủ quyền và độc lập, nói tóm lại là hình thức đặc trưng tương ứng của nhà nước. Điều này không ngăn chặn nền tảng kinh tế tương đồng – sự tương đồng trong lập trường về những điều kiện chính của nó – vì vô số những điều kiện hoàn cảnh khác nhau do kinh nghiệm và thử nghiệm mà có, môi trường tự nhiên, những mối quan hệ chủng tộc, những ảnh hưởng bên ngoài mang tính lịch sử v.v từ những sự biến đổi vô hạn và sự thay đổi từ từ của bộ mặt, những thứ mà có thể được tìm hiểu chắc chắn chỉ bằng sự phân tích những điều kiện hoàn cảnh được đưa ra theo kinh nghiệm."
|}
Phát biểu này là nền tảng của [[chủ nghĩa duy vật]] của Marx hơn cả do nó chỉ rõ mâu thuẫn giai cấp trong xã hội nhân dân rốt cuộc thì là về cái gì: một nền kinh tế của thời gian, thứ bắt buộc một số người phải làm phần việc mà tất cả lợi ích từ nó sẽ rơi vào tay của một số người khác, trong khi đó những người khác có thể có thời gian rảnh rỗi, thứ mà trong thực tế phụ thuộc vào nỗ lực làm việc của những người phải làm việc.
Dòng 34:
{| class="wikitable"
|-
| “Từ"Từ khả năng lợi nhuận có thể ít hơn giá trị thặng dư, từ đó tư bản [ có thể ] trao đổi sinh lãi mà không tự nhận ra đúng ý nghĩa của nó, kéo theo nó không chỉ là những nhà tư bản cá nhân, mà còn là những quốc gia cũng có thể liên tục trao đổi với một cá nhân khác, thậm chí có thể còn liên tục lặp lại những trao đổi trên một phạm vi mở rộng chưa từng có, trừ phi vì lý do đó mà lợi ích tất yếu ở mức độ công bằng. Một trong những quốc gia có thể liên tục chiếm đoạt cho nó một phần lao động thặng dư của người khác, không trả lại cho họ bất cứ thứ gì trong trao đổi, ngoại trừ việc đó thì phạm vi ở đây không giống như trong trao đổi giữa nhà tư bản và công nhân”nhân".
|}
Trong trường hợp này, nhiều sản phẩm trao đổi một cách có hiệu quả cho ít sản phẩm hơn, và một giá trị lớn hơn trao đổi cho một giá trị nhỏ hơn, vì một số có thể chiếm được vị trí vững mạnh hơn trong thị trường, và số khác sẽ có vị trí thấp yếu hơn. Đối với hầu hết các phần trong tập ‘Tư bản’, Marx đã cho rằng trao đổi ngang giá nghĩa là cung và cầu cân bằng; lý luận của ông là kể cả nếu, theo lời phát biểu lý tưởng, không trao đổi không ngang giá nào sẽ diễn ra trong mua bán hàng hóa, và công bằng thị trường hiện hữu, sự bóc lột tuy vậy có thể xảy ra trong những mối quan hệ sản xuất tư bản, bởi vì giá trị của hàng hóa được sản xuất bởi sức lao động vượt quá bản thân giá trị sức lao động của chính nó. Mặc dù vậy Marx đã không bao giờ hoàn thành được sự phân tích của mình về thị trường thế giới.
 
Trong thế giới thực, những nhà kinh tế chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx như Samir Amin tranh luận rằng, trao đổi không ngang giá diễn ra trong mọi thời điểm, hàm ý những chuyển đổi của giá trị từ nơi này đến một nơi khác, thông qua quá trình trao đổi buôn bán. Vì vậy, càng nhiều trao đổi buôn bán được “toàn"toàn cầu hóa”hóa", thì sự trung gian giữa người sản xuất và người tiêu thụ càng lớn; cho nên, những người trung gian chiếm đoạt một phần nhỏ ngày càng tăng của giá trị cuối cùng của những sản phẩm, trong khi đó những người sản xuất trực tiếp thu được chỉ một phần nhỏ của giá trị cuối cùng.
 
Trao đổi không ngang giá quan trọng nhất thế giới kinh tế ngày nay liên quan đến sự trao đổi giữa hàng hóa nông nghiệp và hàng hóa công nghiệp, nghĩa là phạm trù trao đổi buôn bán ủng hộ hàng hóa công nghiệp chống lại hàng hóa nông nghiệp. Raul Prebisch đã chú thích rằng, điều này thường có nghĩa sản lượng nông nghiệp phải được sản xuất và bán đi ngày càng nhiều, để mua được một lượng hàng hóa công nghiệp cụ thể. Vấn đề này đã trở chủ đề của nhiều cuộc tranh cãi nảy lửa tại những cuộc gặp WTO gần đây.
Dòng 45:
 
== Sự phê phán mới trong tư tưởng của Marx về lao động thặng dư ==
Theo nhà kinh tế học Fred Moseley, “lý"lý thuyết kinh tế học tân cổ điển được phát triển, một phần nào đó, là để công kích quan điểm về lao động thặng dư hoặc giá trị thặng dư và để lý luận rằng những công nhân nhận được tất cả những giá trị được hiện thân trong những nỗ lực sáng tạo của họ."
 
Một vài những phê phán cơ bản mới của học thuyết Marx có thể được bắt gặp trong những công trình của Pearson, Dalton, Boss, Hodgson và Harris.
 
Nhà phân tích chủ nghĩa Marx John Roemer không thừa nhận cái mà ông ấy gọi là “định"định nghĩa cơ bản của chủ nghĩa Marx”Marx" (sau Michio Morishima): sự tồn tại của lao động thặng dư là cần thiết và là điều kiện đủ cho lợi nhuận. Ông chứng minh rằng định nghĩa này là sai theo logic. Mặc dù vậy, chính Marx chưa bao giờ lý luận rằng lao động thặng dư là một điều kiện đủ cho lợi nhuận, mà chỉ là một điều kiện cơ bản cần thiết (Morishima tập trung vào việc chứng minh rằng, bắt đầu từ sự tồn tại của lợi nhuận được biểu lộ trong những thuật ngữ giá cả, chúng ta có thể rút ra được sự tồn tại của giá trị là một kết quả logic). Năm lý do đó là:
* Lợi nhuận trong một quá trình hoạt động tư bản “rút"rút cục”cục" cũng chỉ là một khẳng định tài chính đối với những sản phẩm và những lao động bắt buộc được tạo ra bởi những người mà chính họ sản xuất ra những sản phẩm và lao động bắt buộc đó, trong ưu điểm của quyền sở hữu của họ đối với những tài sản tư (của cải tư sản).
* Lợi nhuận có thể được tạo ra hoàn toàn trong những quá trình trao đổi buôn bán, thứ mà tự chúng rất có thể bị xóa bỏ trong không gian và thời gian khỏi lao động thuộc về hợp tác xã thứ mà những lợi nhuận bao hàm một cách cơ bản.
* Lao động thặng dư có thể được thực hiện, mà chắc chắn không cần sự ảnh hưởng này tới bất kỳ lợi nhuận nào, bởi vì chẳng hạn như những sản phẩm của lao động đó thất bại trong việc bán đi.