Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nghiêm Xuân Yêm”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 75:
Năm 1941, sau khi tốt nghiệp Kỹ sư Canh nông, ông từ chối làm công chức cho chính quyền thuộc địa. Sau khi lập gia đình, ông cùng vợ lên lập đồn điền khai thác nông lâm ở [[Thái Nguyên]] để kiếm tiền trả lại học bổng cho chính quyền thực dân. Ông cùng bạn bè là các ông [[Dương Đức Hiền]], [[Vũ Đình Hòe]], [[Đỗ Đức Dục]], [[Phan Anh]]... tham gia phong trào thanh niên - sinh viên yêu nước, thể hiện thái độ ủng hộ phong trào [[Việt Minh]].
 
Ông cũng thường xuyên tham gia viết bài trên báo Thanh Nghị. Các bài báo của ông chuyên viết về nông nghiệp, gắn với đời sống, tâm tư của nông dân và trách nhiệm của người trí thức với nghề nông nước nhà. Về việc chấn hưng nền nông nghiệp ông đặc biệt quan tâm đến vấn đề người nông dân không có ruộng và ít ruộng, vấn đề chống độc canh cây lúa, vấn đề đưa ngành chăn nuôi thành ngành đi đôi với trồng trọt, việc lai giống, việc dẫn thủy nông nhập điền...

==Quá trình hoạt động cách mạng==
Ông tham gia phong trào Việt Minh và vào [[Đảng Dân chủ Việt Nam]], từ tháng 6 năm 1944.
 
Sau [[Cách mạng tháng 8]], ông được [[Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] cử giữ chức vụ Giám đốc Nha Nông Lâm Súc. Ông cùng các đồng nghiệp ra báo “Tấc đất”, hướng dẫn nông dân canh tác, tuyên truyền giải quyết nạn đói.
 
Khi [[Toàn quốc kháng chiến]] nổ ra, ông được cử làm Trưởng ban Canh nông [[Liên khu I]]. Năm 1947, ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Canh nông.

Năm 1950, ông được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Trung ương [[Đảng Dân chủ Việt Nam]].
 
Tháng 3 năm 1954, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng [[Bộ Canh nông]]<ref>[http://chinhphu.vn/cttdtcp/vi/cpchxhcnvn/thanhviencpcacthoiky/chinhphumoi_03_11_1946.html Chính phủ mới (từ sau ngày 3-11-1946 đến đầu năm 1955)]</ref>.
 
Sau khi chính phủ [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] tiếp quản hoàn toàn miền Bắc, chính phủ được cải tổ lại tháng 9 năm 1955, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Nông lâm<ref>[http://chinhphu.vn/cttdtcp/vi/cpchxhcnvn/thanhviencpcacthoiky/chinhphumorong.html Chính phủ mở rộng (từ kỳ họp thứ 5 đến kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá I)]</ref>.
 
Giữa năm 1958, ông được bầu làm Tổng Thư ký [[Đảng Dân chủ Việt Nam]] và giữ chức vụ này trong suốt 30 năm cho đến khi đảng này giải thể.
 
Giữa năm 1960, ông được bầu làm Đại biểu Quốc hội [[Quốc hội Việt Nam khóa II|khoá II]]. Ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng [[Bộ Nông nghiệp]]. <ref>http://www2.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/thanhvienchinhphuquacacthoiky?governmentId=610</ref>
 
Tháng 3 năm 1954, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng [[Bộ Canh nông]]<ref>[http://chinhphu.vn/cttdtcp/vi/cpchxhcnvn/thanhviencpcacthoiky/chinhphumoi_03_11_1946.html Chính phủ mới (từ sau ngày 3-11-1946 đến đầu năm 1955)]</ref>. Sau khi chính phủ [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] tiếp quản hoàn toàn miền Bắc, chính phủ được cải tổ lạiĐến tháng 91 năm 19551963, ông được bổđổi nhiệmsang làm Bộ trưởng Bộ Nông lâmtrường<ref>[http://chinhphu.vn/cttdtcp/vi/cpchxhcnvn/thanhviencpcacthoiky/chinhphumorongchinhphukhoaII.html Chính phủ mở rộng (từnhiệm kỳ họp thứ 5 đến kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá III (1960-1964)]</ref>. Giữa năm 1958, ông được bầu làm Tổng Thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam và giữ chức vụ này trong suốt 30 năm cho đến khi đảng này giải thể.
 
Giữa năm 1960, ông được bầu làm Đại biểu Quốc hội [[Quốc hội Việt Nam khóa II|khoá II]]. Ông cũng được bổ nhiệm làm Bộ trưởng [[Bộ Nông nghiệp]]. Đến tháng 1 năm 1963, ông được đổi sang làm Bộ trưởng Bộ Nông trường<ref>[http://chinhphu.vn/cttdtcp/vi/cpchxhcnvn/thanhviencpcacthoiky/chinhphukhoaII.html Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khoá II (1960-1964)]</ref>. Tháng 4 năm 1971, ông được điều sang giữ chức Phó Chủ nhiệm thường trực Ủy ban Nông nghiệp Trung ương, hàm [[Bộ trưởng]]<ref>[http://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B_quy%E1%BA%BFt_s%E1%BB%91_1067_NQ/TVQH Nghị quyết số 1067 NQ/TVQH]</ref>.
 
Sau khi Việt Nam thống nhất, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng phụ trách Khoa học và Kỹ thuật Nông nghiệp<ref>[http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/thanhvienchinhphuquacacthoiky?governmentId=616 Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khoá VI (1976-1981)]</ref>. Tại [[Quốc hội Việt Nam khóa VII|khóa VII]], ông được bầu làm Phó Chủ tịch [[Quốc hội Việt Nam]].
Hàng 89 ⟶ 102:
Năm 1988, [[Đảng Dân chủ Việt Nam]] tuyên bố giải thể, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam và được bầu làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch, sau đó là Ủy viên danh dự Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương [[Mặt trận Tổ quốc Việt Nam]].<ref>[http://www.na.gov.vn/Sach_QH/VKQHtoantapVI2/Chuthich/Chuthich_3.htm BẢN CHỈ DẪN TÊN NGƯỜI]</ref>.
 
Ông chính thức nghỉ hẳncông tác vào năm 1992 và mất năm 2001.
 
==Vinh danh==