Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tần Hiến công”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 50:
Ông tên thật là '''Doanh Sư Thấp''' (嬴师隰) hay '''Doanh Liên''' (''嬴連''), sinh năm 424 TCN, là con trai của [[Tần Linh công]].
Sau khi Linh công chết năm [[415 TCN]], Sư Thấp mới 10 tuổi nên người chú của Linh công là Doanh Điệu Tử giành ngôi vị quân chủ, tức [[Tần Giản công]]. Mẹ con Thế tử Sư Thấp phải lưu vong sang nước [[Ngụy (nước)|Ngụy]].
==Lên ngôi vua==
Năm [[400 TCN]], Giản công chết, con là [[Tần Huệ công (Chiến Quốc)|Tần Huệ công]] lên nối ngôi và tại vị 13 năm thì mất, con là [[Tần Xuất
==Bỏ tục tuẫn táng==
Ngay năm [[384 TCN]],
==Dời đô==
Năm ''383 TCN'', Hiến công thiên đô đến [[Hàm Dương]] (栎阳, ngày nay thuộc [[Tây An]]). Việc dời đô này giúp nước Tần tiến đến gần hơn các nước [[Nguỵ (nước)|Nguỵ]], [[Hàn (nước)|Hàn]] và [[Triệu (nước)|Triệu]], tạo điều kiện phát triển thương mại và làm suy yếu các dòng họ quý tộc ở kinh đô cũ.
==Lập quận huyện==
Tần Hiến công thành lập các quận huyện, do các quan chức được triều đình bộ nhiệm quản lí. Đây là một cải cách nổi tiếng, góp phần xoá bỏ những thái ấp do những công thần đảm nhận và theo chế độ cha truyền con nới. Nó cũng làm tăng cường sức mạnh của chính quyền trung ương, và làm nước Tần mạnh dần lên, góp phần cho sự thống nhất [[Trung Quốc]] sau này.
==Chiến tranh với Nguỵ==
Năm [[364 TCN]], Tần và Ngụy giao chiến và quân đội Tần đã đánh thắng được quốc gia mạnh nhất [[Trung Nguyên]] vào thời điểm đó. [[Chu Liệt Vương]] sai sứ chúc mừng và Tần, phong cho làm bá chủ
==Qua đời==
Tần Hiến công trị vì 23 năm và qua đời năm [[362 TCN]] ở tuổi 62. Con là Cừ Lương nối ngôi, tức là [[Tần Hiếu công]].
==Xem thêm==
Dòng 72:
==Tài liệu tham khảo==
* [[Sử kí Tư Mã Thiên]], Biên niên sử nước Tần
* Phương Thi Danh (2001), ''Niên biểu lịch sử Trung Quốc'', NXB Thế giới
{{Vua nước Tần}}
|