Hươu sao Việt Nam
Hươu sao Việt Nam (danh pháp khoa học: Cervus nippon pseudaxis) là một phân loài của loài hươu sao.[1] So sánh với những phân loài hươu sao khác, hươu sao Việt Nam có kích thước nhỏ hơn do môi trường nhiệt đới của chúng. Loài hươu này xưa kia có mặt miền bắc Việt Nam và có thể ở cả vùng tây nam Trung Quốc nhưng hiện đã tuyệt chủng trong hoang dã. Một số được nuôi và với kế hoạch sẽ đưa phụ loài này trả lại thiên nhiên.[2]
Hươu sao Việt Nam | |
---|---|
Hươu sao Việt Nam tại Thảo Cầm Viên Sài Gòn | |
Tình trạng bảo tồn | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Artiodactyla |
Họ (familia) | Cervidae |
Phân họ (subfamilia) | Cervinae |
Chi (genus) | Cervus |
Loài (species) | C. nippon |
Phân loài (subspecies) | C. n. pseudaxis |
Danh pháp ba phần | |
Cervus nippon pseudaxis J. F. T. Eydoux & L. F. A. Souleyet, 1841 |
HƯƠU SAO
Cervus nippon Temminck, 1838
Cervus pseudaxis Eydoux et Souleyet,1841
Cervus (Rusa) axis Bostan, 1906.
Họ: Hươu nai Cervidae
Bộ: Ngón chẵn Artiodactyla
Đặc điểm nhận dạng:
Cỡ trung bình. Trọng lượng cơ thể 60 – 80 kg. Con đực có sừng 2 - 4 nhánh, nhỏ hơn sừng nai. Thân phủ lông ngắn, mịn, màu vàng hung, có 6 - 8 hàng chấm trắng (như sao) dọc theo hai bên thân. Có vệt lông mầu xám kéo dài từ gáy dọc theo sống lưng. Bụng màu vàng nhạt. Bốn chân thon nhỏ màu vàng xám. Đuôi ngắn, phía trên vàng xám, phía đuôi trắng, mút đuôi có túm lông trắng.
Sinh học, sinh thái:
Thức ăn là cỏ, lá cây. Hiện đã thống kê được 75 loài cây làm thức ăn cho chúng, ưa thích nhất là các loại lá cây có nhựa mủ như: sung, ngái, mít... thuộc họ Dâu tằm Moraceae. Trong điều kiện nuôi dưỡng, hươu sao đẻ tập trung vào các tháng 3, 4, 5. Thời kỳ động dục tập trung vào tháng 8, 9. Thời gian có chửa 215 - 235 ngày. Mỗi năm đẻ 1 lứa, mỗi lứa đẻ 1 con. Thời gian nuôi con 3 - 4 tháng. Con đực cho nhung thường vào tháng 3 - 4 dương lịch hàng năm. Ngoài thiên nhiên hươu sao sống ở rừng thưa trên núi đất, ưa thích nơi khô ráo. Sống thành từng đàn, hiền lành và nhút nhát. Trong điều kiện nuôi dưỡng thường mắc một số bệnh đường tiêu hoá, bệnh phổi, bệnh vi rút ở móng, bệnh ký sinh trùng máu.
Phân bố:
Trong nước: Trước đây có ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Quảng Ninh, Hà Tây (Ba Vì), Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh. Hiện nay trong thiên nhiên hầu như không còn. Hươu sao đang được nuôi dưỡng ở: Hà Giang, Sơn La, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Hà Nội (Vườn Thú), Ninh Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đắk Lắk, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh (Vườn Thú) .
Thế giới: Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Liên bang Nga.
Giá trị:
Là loài thú hiếm, Danh lục đỏ IUCN (2000) đã xếp vào bậc CR. Nhung có hoạt tính sinh học cao dùng làm dược liệu rất có giá trị. Nghề nuôi hươu sao đang phát triển mạnh mang lại lợi ích kinh tế cao trong các hộ gia đình
Tình trạng:
Trong thiên nhiên hầu như không còn, nhưng đã được thuần dưỡng phục hồi số lượng. Hiện nay có khoảng 8000 - 10000 con đang được nhân dân nuôi để lấy nhung, lấy thịt làm thực phẩm.
Phân hạng: EW
Biện pháp bảo vệ:
Đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam (2000). Khuyến khích, thúc đẩy nghề nuôi Hươu sao trong nhân dân. Gây thả lại trong các khu Bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia.
Chú thíchSửa đổi
- ^ “Microsatellite analysis of genetic diversity of the Vietnamese sika deer (Cervus nippon pseudaxis)”. Truy cập 6 tháng 10 năm 2015.
- ^ “Bibliothèques du CIRAD catalog › Details for: Genetic diversity analysis of captive populations”. Truy cập 6 tháng 10 năm 2015.
Liên kết ngoàiSửa đổi
- Dữ liệu liên quan tới Cervus nippon pseudaxis tại Wikispecies
- Phương tiện liên quan tới Cervus nippon pseudaxis tại Wikimedia Commons
- Microsatellite analysis of genetic diversity of the Vietnamese sika deer (Cervus nippon pseudaxis). The Journal of heredity 2004
- Cervus nippon pseudaxis trên ZipcodeZoo
- Hươu sao Cervus nippon pseudaxis trên SVRVN