Họ Cá lanh (danh pháp khoa học: Chirocentridae) là một họ cá biển đơn chi Chirocentrus, bao gồm hai loài cá vây tia có quan hệ họ hàng với các loài cá trích.

Cá lanh
Thời điểm hóa thạch: 55–0 triệu năm trước đây
Eocene tới nay[1]
Cá đao Dorab (Chirocentrus dorab)
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Clupeiformes
Họ (familia)Chirocentridae
Cuvier & Valenciennes, 1846
Chi (genus)Chirocentrus
Cuvier, 1816

Cả hai loài này đều có thân dài, với các hàm có các răng sắc và nhọn phù hợp với nhu cầu ăn uống ngấu nghiến của chúng, chủ yếu là các loài cá khác. Cả hai loài này đều có thể dài tới 1 m. Chúng có phần hông màu ánh bạc và phần lưng màu xanh.

Chúng là các loài cá có giá trị thương phẩm và được đưa ra thị trường dưới dạng cá tươi hay cá ướp đá.

Các loài sửa

  • Chirocentrus dorab: Cá dựa, thường được gọi là cá đao, cá lanh[2], được tìm thấy ở các vùng nước ấm ven bờ, từ khu vực Hồng Hải tới Nhật BảnAustralia.
  • Chirocentrus nudus: Cá lanh hàm dài hay cá dựa hàm dài, cũng được tìm thấy trong phạm vi khu vực này, và rất khó để phân biệt nó với C. dorab (loài thứ nhất có đốm đen trên vây lưng). Loài này còn ăn cả các loài cua ngoài thức ăn thông thường là các loài cá nhỏ.

Chú thích sửa

  1. ^ Sepkoski, Jack (2002). “A compendium of fossil marine animal genera”. Bulletins of American Paleontology. 364: 560. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2008.
  2. ^ Thái Thanh Dương (chủ biên), Các loài cá thường gặp ở Việt Nam, Bộ Thủy sản, Hà Nội, 2007. Tr.7.

Tham khảo sửa

  •   Dữ liệu liên quan tới Chirocentridae tại Wikispecies
  • "Chirocentridae". FishBase. Ed. Ranier Froese và Daniel Pauly. Phiên bản tháng 2 năm 2005. N.p.: FishBase, 2005.